“A HÀM KINH”
A Hàm kinh 阿含经 bản dịch sang tiếng Hán có 183 quyển. Đây là bộ ngữ lục
thuyết giáo của Thích Ca Mâu Ni 释迦牟尼, người sáng lập
ra Phật giáo, tác giả có thể cho là Phật tổ Thích Ca Mâu Ni.
Giữa thế
kỉ thứ 6 trước công nguyên, Thích Ca Mâu
Ni người Ấn Độ sáng lập ra Phật giáo, đồng thời tại Ấn Độ Ngài đã truyền giáo
hơn 40 năm; thời Đức Phật còn tại thế, học thuyết Phật giáo chưa chỉnh lí thành
văn; sau khi Ngài nhập Niết bàn, để thừa tập những điều chỉ dạy của Ngài, các đệ
tử dùng phương thức ức tụng, thảo luận bắt đầu tập hợp chỉnh lí những ngôn luận
của Ngài (Phật giáo gọi là “kiết tập” 结集), hình thành nên những
bộ kinh Phật đầu tiên, đó chính là điển tịch mà có tên gọi là “tam tạng” 三藏.
“Tam tạng” chỉ “kinh tạng” 经藏 (tập hợp những ngữ lục của Phật Tổ), “luật tạng” 律藏 (những quy phạm hành vi mà Phật Tổ quy định cho tín đồ,
tức giới luật), “luận tạng” 论藏 (những trứ tác về nội
dung kinh tạng do đệ tử Phật môn chú thích và phát huy, là một bộ phận kinh điển
hình thành sớm nhất trong kinh Phật). Theo ghi chép, năm mà Phật Tổ Thích Ca
Mâu Ni qua đời, 500 đệ tử tập họp lại, dưới sự chủ trì của Đại Ca Diếp 大迦叶, cộng đồng đã thẩm định lại thuyết giáo của Phật Tổ.
Ưu Bà Di 优婆夷 phân ra 80 lần tụng xuất luật tạng “Bát thập tụng luật”
八十诵律, A Nan 阿难 tụng xuất kinh tạng
“A Hàm kinh” 阿含经, hình thành kinh Phật tối sơ.
“A Hàm” (dịch âm từ Phạm văn
Agama), dịch ý là “pháp quy”, hoặc “vô tỉ pháp”, ‘giáo truyền”, ngụ ý “Phật
pháp chi tối thượng giả” hoặc “truyền chi giáo thuyết”. “A Hàm kinh” ghi chép lại
hoạt động truyền giáo của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni và học thuyết tôn giáo, phản ánh
tương đối chân thực nội dung Phật giáo thời kì đầu,cho nên được nổi tiếng là
“căn bản Phật giáo” 根本佛教.
A Hàm kinh bản dịch sang tiếng
Hán chia làm 4 bộ: gồm
Trường A Hàm kinh 长阿含经 22 quyển
Trung A Hàm kinh 中阿含经 60 quyển
Tăng nhất A Hàm kinh 增一阿含经 51 quyển
Tạp A Hàm kinh 杂阿含经 50 quyển
A Hàm kinh thực tế là tổng
danh một bộ đại tùng thư. 4 bộ thông thường cũng gọi là “Tứ A Hàm”. Danh xưng
“Tứ A Hàm” không có ý nghĩa đặc biệt gì, chỉ là độ dài ngắn của văn tự kinh văn
để phân biệt mà thôi. Theo điển tịch luật tạng Ngũ phân luật 五分律:
Ca Diếp hỏi tất cả tu đa la 修多罗 (tu đa la tức kinh tạng), trong tăng có người cất lời:
đó là trường kinh, nay tập hợp lại thành một bộ, tên là Trường A Hàm; còn kinh không dài không ngắn, tập hợp thành một bộ gọi
là Trung A Hàm; những thuyết giáo cho
Ưu bà Tắc, Ư bà di, thiên tử thiên nữ, tập hợp lại thành một bộ gọi là Tạp A Hàm, kinh từ nhất pháp tăng lên thập
nhất pháp, tập hợp thành một bộ gọi là Tăng
nhất A Hàm.
Tứ A Hàm mỗi bộ lại bao gồm từ
mấy chục đến cả ngàn tiểu kinh. Trường A
Hàm gồm 30 kinh; Trung A Hàm gồm
222 kinh; Tăng nhất A Hàm gồm 72
kinh, còn Tạp A Hàm gồm 1362 kinh, tổng
cộng gần 2000 kinh.
Có thể nói, A Hàm kinh là bộ ngôn hành lục của Thích
Ca Mâu Ni, mỗi một tiểu kinh chính là thực lục một lần thuyết pháp, thông qua
môn đồ hồi ức giảng thuật mà thành, nhân đó mỗi một kinh luôn bắt đầu bằng câu
“Như thị ngã văn” 如是我闻 (tôi nghe như thế này) hoặc “Văn như thị” 闻如是 (nghe như thế này), đồng thời nội dung là tại một nơi
nào đó, ở một thời gian nào đó, hướng đến ai mà giảng. A Hàm kinh chính là một bộ kinh luỹ tập như thế mà thành. Lí luận
tôn giáo của Phật Tổ Thích Ca chính là thông qua nhiều phương diện của những tiểu
kinh mà luận thuật, trong đó có triết học nhân sinh Phật giáo lấy “tứ thánh đế”
四圣谛 làm nội dung hạt nhân, lấy thuyết “thập nhị nhân
duyên” 十二因缘làm nội dung chủ yếu về lí luận duyên khởi, lấy “bát
chánh đạo” 八正道, ‘tứ niệm xứ” 四念处, “tứ chánh đoạn” 四正断
làm nội dung lí luận về phương diện tu hành Phật giáo, cùng với lấy “ngũ uẩn” 五蕴, “nghiệp báo luân hồi” 业报轮回, “tam pháp ấn” 三法印 làm giáo nghĩa cơ
bản nhất của Phật giáo thời kì đầu. Đông
thời, thông qua hành tung của Phật Tổ trong A
Hàm kinh, đã triển hiện ở một trình độ nhất định bối cảnh lịch sử Thích Ca
sáng lập Phật giáo cùng hoạt động truyền giáo của Ngài.
A Hàm kinh được thu thập vào
tổng tập Đại tạng kinh 大藏经, điển tịch Phật
giáo bằng chữ Hán. Đại tạng kinh có
nhiều ấn bản:
Khai bảo tạng 开宝藏 thời Bắc Tống
Thích sa tạng 碛砂藏 thời Nam Tống
Kim bản tạng 金版藏 đời Kim
Tần Già bản Đại tạng kinh 频伽版大藏经 in tại
Thượng Hải năm 1913.
Ngoài
ra, Triều Tiên có khắc bản Cao Li tạng 高丽藏, Nhật bản có
khắc bản Đại Chính tân tu tạng 大正新修藏. Trước mắt,
bản hoàn thiện nhất, dễ tra tìm nhất là bản Trung
Hoa Đại tạng kinh 中华大藏经 của Trung Hoa thư cục. Bản này do Nhậm Kế Dũ 任继愈 chủ biên, lấy kim khắc bản Triệu Thành kim tạng 赵城金藏 làm bản gốc, hiệu khám cùng với 8 bản mang tính đại
biểu, từ năm 1984 liên tục ấn hành, 10 năm xuất bản đầy đủ.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 24/8/2017
Nguyên tác Trung văn
“A HÀM KINH”
“阿含经”
Trong quyển
THẦN BÍ VĂN HOÁ ĐIỂN TỊCH ĐẠI QUAN
神秘文化典籍大观
Tác giả: Vương Ngọc Đức 王玉德,
Dương Sưởng 杨昶
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật