XƯNG HIỆU “BA ĐỒ LỖ” TRONG TIẾNG MÃN CHÂU
“Ba đồ lỗ”
巴图鲁 cũng còn được gọi là “Ba thổ lỗ” 巴土鲁, tiếng Hán có nghĩa là anh hùng. Tức từ “bạt đô” 拔都 (quyển
156 “Trương Hoằng Phạm truyện” 张弘范传), “Bạt đô lỗ” 拔都 (quyển
174 “Hách Thiên Đĩnh truyện” 郝天挺传), “Bát đô” 八都 (quyển
120 “Thuật Xích Thai (Đài) truyện” 术赤台传) trong Nguyên sử 元史 và “Ba đô nhi” 巴都儿 trong
Nguyên bí sử 元秘史.
Mãn
Châu có tập tục lấy xưng hiệu đặt cho người, đa phần theo tính hạnh của họ mà định
ra mĩ danh, Thanh Thái Tổ dùng xưng hiệu đó để biểu dương tài năng và công đức
của bộ hạ, cho nên việc ban tặng hiệu trở thành một loại ân sủng. Thời Thái Tổ
triều Thanh, Ba Nhã Lạt 巴雅喇 được ban hiệu là
Trác lễ khắc đồ 卓礼克图 (Sử cảo 史稿 truyện 2), Chử
Anh 褚英 được ban hiệu là A nhĩ cáp đồ thổ môn 阿尔哈图土门(Sử cảo 史稿 truyện 3), Hỗ
Nhĩ Hán được ban hiệu là Đạt nhĩ hán hạt 达尔汉辖, (trong Sử cảo 史稿 truyện 12 viết
là Đạt nhĩ hán 达尔汉), Vũ Nạp Cách 武纳格
được ban hiệu là Ba khắc thập 巴克什(Sử cảo 史稿 truyện 17); thời Thái Tông, Đa Nhĩ Cổn 多尔衮 được ban hiệu là Mặc nhĩ căn đại thanh 墨尔根代青 (Sử cảo 史稿 truyện 5), Đa Đạc
多铎được ban hiệu là Ngạch nhĩ khắc sở hô nhĩ 额尔克楚呼尔(Sử cảo 史稿 truyện 5), Lí
Quốc Hàn 李国翰 được
ban hiệu là Mặc nhĩ căn thị vệ 墨尔根侍卫 (Sử cảo
史稿 truyện 23) đều như thế.
Đa Nhĩ
Cổn, Đa Đạc nhân vì có công đặc biệt trong việc chinh phạt Sát Cáp Nhĩ Đa La 察哈尔多罗 vào năm Thiên Thông 天聪 thứ 2 mà được ban
hiệu. Sự kiện đó trong Đông Hoa lục 东华录 có nói:
Tam nguyệt Mậu Thìn (sơ thất nhật), thượng
tương hoàn Thẩm Dương, vu đồ trung đại yến. Thượng viết, mông thiên quyến hựu
nhị ấu đệ tuỳ chinh dị quốc, phu hoạch khải tuyền, nghi tứ dĩ mĩ hiệu .....
(Thiên Thông tam)
三月戊辰 (初七日), 上将还沈阳, 于途中大宴. 上曰, 蒙天眷祐二幼弟随征异国, 俘获凯旋, 宜赐以美号..... (天聪三)
(Tháng
3 Mậu Thìn (ngày mồng 7), bề trên sắp về lại Thẩm Dương, giữa đường tổ chức đại
yến. Bề trên nói rằng: trời cao bảo hộ hai ấu đệ theo ta đi chính phạt nước
khác, bắt được giặc thắng lợi trở về, nên ban tặng cho mĩ hiệu ...) (năm Thiên
Thông thứ 3)
Có thể
thấy việc ban tặng hiệu lúc bấy giờ rất trịnh trọng.
Trong việc ban tặng hiệu, xưng hiệu thường thấy nhất
là “Ba đồ lỗ”, nhân vì nó biểu thị vũ dũng, cho nên cũng còn xưng là “dũng hiệu”.
Ba đồ lỗ dũng hiệu có 2 loại:
- Một
loại chỉ xưng Ba đồ lỗ, không thêm chữ nào khác, là loại phổ thông.
- Một
loại trước Ba đồ lỗ gia thêm chữ khác, là chuyên xưng.
Dũng hiệu
phổ thông chỉ có đầu thời khai quốc của triều Thanh. Từ Thái Tổ trở về trước
xưng Ba đồ lỗ có Lễ Đôn 礼敦(Sử cảo 史稿 truyện 2). Thời Thái Tổ, Ngạch Diệc Đô 额亦都 là trước nhất (Sử
cảo 史稿 truyện 12), sau đó có Mục Khắc Đàm 穆克谭
(Sử Cảo 史稿 truyện 13 ‘phụ Ba Đốc Lí truyện 巴笃里传), Khách Lạt 喀喇 (cùng sách trên ‘phụ
Đạt Âm Bố truyện’ 达音布传) Ngạc Mạc Khắc
Đồ 鄂莫克图 (Sử cảo 史稿 truyện 17), Ngô
Ba Hải 吴巴海 (cùng sách trên ‘phụ Cát Tư Cáp truyện; 吉思哈传, Ni Đa Khách 尼多喀
(Sử cảo 史稿 truyện 20, phụ ‘Tề Nhĩ cách Thân truyện’齐尔格申传), Tô Lỗ Mại 苏鲁迈 (cùng sách trên,
phụ ‘Diệp Thần truyện’ 叶臣传).
Xưng hiệu
“Ba đồ lỗ” phổ thông này đặt ở sau tên người, như trong Thái Tổ Vũ hoàng đế thực lục 太祖武皇帝实录 năm Đinh hợi ghi:
Bát nguyệt nội lệnh Ách Nhất Đô (Ngạch Diệc
Đô) Ba thổ lỗ lãnh binh thủ Ba Lí Đại thành. (quyển 1)
八月内令厄一都 (额一都) 巴土鲁领兵取巴里代城. (卷 1)
(Trong
tháng 8, lệnh cho Ách Nhất Đô (Ngạch Nhất Đô) Ba thổ lỗ lãnh binh đi lấy thành
Ba Lí Đại)
Và năm
Thiên Mệnh 天命 thứ 9 có ghi “đại phụ Lí Đôn Ba thổ lỗ” 大父李敦巴土鲁 (quyển 4) (Lí Đôn tức Lễ Đôn), bá phụ của Thái Tổ. ở
đây nói “đại phụ” là dịch nhầm. Về sau đổi lại đặt ở trước tên người, như trong
Đông Hoa lục 东华录 có ghi là “Ba
đồ lỗ Ngạch Diệc Đô” 巴图鲁额亦都.
Dũng hiệu
chuyên xưng, như Mục Nhĩ Cáp Tề 穆尔哈齐 được ban hiệu là
Thanh Ba đồ lỗ 青巴图鲁 (Sử cảo 史稿 truyện 2), Đại
Thiện 代善 được ban hiệu là Cổ Anh Ba đồ lỗ 古英巴图鲁(Sử cảo 史稿 truyện 3), An
Phí Dương Cổ 安费扬古 được ban hiệu là Thạc Ông Khoa La Ba đồ lỗ 硕翁科罗巴图鲁(Sử cảo 史稿 truyện 12), Bản
Khoa Lí 本科里 được ban hiệu là Tô Hách Ba đồ lỗ 苏赫巴图鲁(Sử cảo 史稿 truyện 29 ‘Đôn
Bái truyện’ 敦拜传).
Ban đầu,
xưng hiệu chuyên xưng - bao gồm dũng hiệu
và phi dũng hiệu - dùng để đại biểu cho
tên của người đó, cho nên xưng xưng hiệu thì không xưng nguyên danh. Trong Thái Tổ Vũ hoàng đế thực lục ( nhị) 太祖武皇帝实录 (二), năm Quý Sửu có ghi:
Con Thái Tổ là Cổ Anh Ba thổ lỗ 古英巴土鲁, cháu là A Mẫn 阿敏, cùng Phi Anh Đống 非英冻 (Phí Anh Đông 费英东), Ha Ha Lí
Ách Phu 呵呵里厄夫 (Hà Hoà Lễ Ngạch Phụ 何和礼额驸), Đả Lạt Hán Hà 打喇汉虾, Ách Nhất Đô
厄一都 (Ngạch Diệc Đô 额亦都), Hùng Khoa Lạc 雄科落 ...
Cổ Anh
Ba thổ lỗ 古英巴土鲁 là Đại Thiện 代善,
Đả Lạt Hán Hà 打喇汉虾 (Đạt Nhĩ Hán Hạt 达尔汉辖) là Hỗ Nhĩ Hán 扈尔汉, Hùng Khoa Lạc 雄科落 (Thạc Ông Khoa La Ba đồ lỗ 硕翁科罗巴图鲁) là An Phí Dương Cổ 安费扬古, đều không viết
nguyên danh của người đó. Trong Thực lục
nhị 实录二, năm Thiên Mệnh 天命 thứ 1, có nói:
Đế sai 2 tướng là Đáp Nhi Hán Hà 答儿汉虾 (Đạt Nhĩ Hán Hạt 达尔汉辖) và Hùng
Khoa Lạc 雄科落 lãnh 2000 binh chinh phạt bộ Tra Cáp Lượng
查哈量 (Tát Cáp Liên 萨哈连) ở Đông Hải.
Và
trong quyển 4, năm Thiên Mệnh 天命 thứ 8 có nói:
Ngày 20 tháng 10, đại thần Đáp Nhi Hán Hà 搭儿汉虾 (Đạt Nhĩ Hán Hạt 达尔汉辖) mất, hưởng niên 48 tuổi.
Những
điều trình bày ở trên là cựu tục của nhà Thanh trước khi vào trung nguyên, về
sau, sau xưng hiệu vẫn nêu nguyên danh của người đó. Trong Vũ hoàng đế thực lục ( tam) 武皇帝实录 (三) , năm
Thiên Mệnh 天命 thứ 5 có nói:
Tháng
9, hoàng đệ Thanh Ba thổ lỗ 青巴土鲁 qua đời, trong Đông Hoa lục 东华录 nói rằng:
Tháng 9 ngày Giáp Thân, hoàng đệ Thanh Ba đồ
lỗ 青巴图鲁 bối lặc Mục Nhĩ Cáp Tề 穆尔哈齐 qua đời.
(Thiên Mệnh tam天命三)
Đó là sử
quan dùng chế độ sau này truy cải, không phù hợp với nguyên ý ban tặng hiệu.
Dũng hiệu
chuyên xưng và các xưng hiệu khác, hai người cùng thời không có xưng hiệu giống
nhau để tránh trùng lặp, nhưng với hai người khác thời thì có thể. An Phí Dương
Cổ 安费扬古 thời Thái Tổ được ban hiệu là Thạc Ông Khoa La Ba đồ
lỗ 硕翁科罗巴图鲁, sau khi mất, Lao Tát 劳萨
cũng được ban hiệu Thạc Ông Khoa La Ba đồ lỗ 硕翁科罗巴图鲁 vào năm Thiên Thông 天聪 thứ 8 (Sử cảo 史稿 truyện 13). Cùng năm đó, Lỗ Đồ Thập 鲁图什cũng được truy hiệu là Thạc Ông Khoa La Ba đồ lỗ 硕翁科罗巴图鲁(Sử cảo 史稿 truyện 13), bởi
vì họ không sinh sống cùng thời. Chế độ này về sau cũng bỏ. Đầu niên hiệu Gia
Khánh 嘉庆, Ô Thập Cáp Đạt 乌什哈达 có hiệu là Pháp Phúc Lí Ba đồ lỗ 法福里巴图鲁 (Sử cảo 史稿 truyện 136, ‘phụ
Huệ Luân truyện’ 惠伦传), Phú Chí Na 富志那
có hiệu là Pháp Phúc Lễ Ba đồ lỗ 法福礼巴图鲁(Sử cảo 史稿 truyện 133), Vương Văn Hùng 王文雄
có hiệu là Pháp Phật Lễ Ba đồ lỗ 法佛礼巴图鲁(Sử cảo 史稿 truyện 136), cả 3 tiếng Mãn là như nhau. Khoảng năm
thứ 6, thứ 7 thời Đồng Trị 同治, Triệu Đức Quang 赵德光
(Sử cảo 史稿 truyện 216), Chu Đạt
Vũ 周达武 (Sử cảo 史稿 truyện 217), Lí
Trường Lạc 李长乐(Sử cảo 史稿 truyện 218),
cùng được ban hiệu Bác Kì Ba đồ lỗ 博奇巴图鲁. Năm Đồng Trị thứ
1, Dư Tế Xương 余际昌 (Sử cảo 史稿 truyện 216), Đằng
Tự Vũ 滕嗣武 (Sử cảo 史稿 truyện 218),
Tăng Quốc Thuyên 曾国荃 (Sử cảo 史稿 truyện 200),
cùng được ban hiệu là Vĩ Dũng Ba đồ lỗ 伟勇巴图鲁. Trình Học Khải 程学启 (Sử cảo 史稿 truyện 203), Trịnh Quốc Khôi 郑国魁
cùng được ban hiệu là Bột Dũng Ba đồ lỗ 勃勇巴图鲁. Đó là lí do việc ban hiệu có rất nhiều, cho rằng là chế độ đó có trước
khi nhập quan là không đúng. Nhưng người được ban hiệu không lấy xưng hiệu để
thay nguyên danh của mình, nên có sự trùng lặp cũng không sao. (còn tiếp)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 22/5/2017
Nguyên tác Trung văn
BA ĐỒ LỖ
巴图鲁
Trong quyển
THANH SỬ THÁM VI
清史探微
Tác giả: Trịnh Thiên Đĩnh 郑天挺
Bắc Kinh Đại học xuất bản xã, 1999
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật