THÂN THẾ VÀ MỘ TÁNG CỦA VỢ CHỒNG CHU THẾ TRÂN
Chu Thế Trân 朱世珍 vốn tên là Chu Ngũ
Tứ 朱五四, là một nông dân nghèo khổ. Lúc còn sống chưa từng
làm hoàng đế. Tên Chu Thế Trân của ông là do người con là Chu Nguyên Chương 朱元璋 sau khi đến với cuộc khởi nghĩa nông dân, có một thân
phận nhất định mới đặt cho. Còn miếu hiệu Nhân Tổ 仁祖
và thuỵ hiệu Thuần Hoàng Đế 淳皇帝 của ông, cùng với
danh hiệu Thuần Hoàng Hậu 淳皇后 của người vợ họ Trần
là do Chu Nguyên Chương vào ngày xưng đế (ngày mồng 4 tháng Giêng năm Hồng Vũ 洪武 thứ 1 tức năm 1368) khi truy tôn 4 đời đã gia thêm. Mặc
dù vợ chồng Chu Thế Trân sau khi mất được liệt vào hàng đế hậu, nhưng sinh tiền
có một cuộc sống nghèo khổ vô cùng bi thảm.
Chu Thế
Trân sinh vào năm Chí Nguyên 至元 thứ 16 thời Hốt Tất
Liệt 忽必烈 (năm 1279). Nhà tại hẻm Chu Gia 朱家 làng Thông Đức 通德
huyện Cú Dung 句容 (nay là huyện Cú Dung thành phố Nam Kinh) lộ Tập
Khánh 集庆. Phụ thân là Chu Sơ Nhất 朱初一,
làm nghề đãi vàng thời Nguyên, hàng năm nộp lên phủ quan một số lượng vàng nhất
định. Cú Dung vốn không sản xuất vàng, Chu Sơ Nhất cũng không biết đãi vàng, chỉ
có thể dùng sản phẩm nông nghiệp đổi thành tiền, sau đó mua vàng giao lên phủ
quan, nhưng vàng khó mua, hơn nữa giá cả rất đắt, để tránh quan phủ bức bách
thúc giục, khi Chu Thế Trân lên 8 tuổi, Chu Sơ Nhất đã đưa cả nhà vượt sông
Hoài, trốn đến gò Tôn Gia 孙家 (nay thuộc huyện Hu
Di 盱眙 tỉnh Giang Tô 江苏)
phía bắc thành Tứ Châu 泗州 13 dặm. Sau khi Chu
Thế Trân trưởng thành đã cưới Trần thị làm vợ. Trần thị là người trấn Tân Luật 津律 huyện Hu Di, phụ thân từng là thân binh dưới tay
Trương Thế Kiệt 张世杰, đại tướng của triều Tống. Sau khi đấu tranh kháng
Nguyên thất bại, để tránh sự truy bắt của quan phủ, ông đã dời đến ở trấn Tân
Luật. Sau khi cha mẹ qua đời, gia cảnh của Chu Thế Trân ngày càng khốn khó. Cuộc
sống bức bách, ông đã cùng với người anh đưa cả nhà rời bỏ làng đi khắp nơi mưu
sinh. Gia đình của người anh dời đến làng Chung Li Đông 钟离东 ở
Hào Châu 濠州 (nay là thôn Triệu Phủ 赵府
phía bắc trấn Trị Minh Quang 治明光 huyện Gia Sơn 嘉山 tỉnh An Huy 安徽). Nhà Chu Thế Trân
thì trước sau dời đến huyện Linh Bích 灵壁 và huyện Hồng 虹 tỉnh An Huy, sau cũng dời đến làng Chung Li Đông. Năm
Chí Nguyên 至元 thứ 3 đời Thuận Đế nhà Nguyên (năm 1337), cả nhà Chu
Thế Trân vì sinh kế phải dời đến làng Chung Li Tây 钟离西.
Năm sau lại dời đến thôn Cô Trang 孤庄 làng Chung Li Thái
Bình 钟离太平. Cả nhà làm ruộng thuê cho địa chủ Lưu Kế Đức 刘继德 trong thôn. Con người Lưu Kế Đức khắc bạc, cho nên cả
nhà Chu Thế Trân quanh năm cực khổ, cuộc sống ngày càng túng bấn. Mùa xuân năm
Chí Nguyên thứ 4 (năm 1344), vùng Giang Hoài gặp phải nạn hạn hán, lúa khô
cháy, ruộng nứt nẻ, tiếp đó lại bị trận ôn dịch và nạn sâu bọ. Ngày mồng 6 tháng 4 năm đó, Chu
Thế Trân 64 tuổi nhân vì nhiễm ôn dịch, không tiền thang thuốc nên đã qua đời.
Người vợ họ Trần 59 tuổi cũng vì bệnh đã mất ngày 22 cùng tháng đó.
Trong
trận hạn hán và ôn dịch đó, cũng mất đi con trưởng của chu Thế Trân là Chu
Trùng Tứ 朱重四 cùng người con lớn của Trùng Tứ. Tang sự 4 người
trong một nhà đành phải do người con thứ 2 là Trùng Lục 重六 và người con nhỏ 17 tuổi là Chu Nguyên Chương 朱元璋 lo liệu.
Theo
ghi chép ở Hoàng lăng bi 皇陵碑 do Chu Nguyên
Chương đích thân soạn, Chu Nguyên Chương và người anh từng van xin điền chủ Lưu
Kế Đức, mong được bố thí cho khoảnh đất nhỏ làm mộ phần. Lưu Kế Đức không những
không cho mà còn “la hét” mắng hai anh em một trận. Người anh của Lưu Kế Đức là
Lưu Kế Tổ 刘继祖 thương xót hai anh em, đã cho một khoảnh đất nhỏ, vợ
chồng Chu Thế Trân mới được an táng. Nhưng do bởi nhà nghèo, lúc táng “không
quan không quách, liệm áo quần rách, chôn nông 3 thước, cúng tế chẳng có món
ngon!” chỉ táng sơ sài. Về sau, nhân vì binh hoang mã loạn, mộ Trần thị bị người
ta trộm. Khi Chu Nguyên Chương thu thập di cốt, phát hiện xương ngón tay của mẹ
thiếu một đốt, tìm mãi tìm được, nhưng lại không dám xác quyết đó là xương đốt
tay của mẹ. Đột nhiên Chu Nguyên Chương nhớ đến cách dùng máu để nghiệm cốt,
Chu Nguyên Chương cắn ngón tay, để máu nhỏ lên xương, quả nhiên máu thấm vào
trong xương. Dùng xương của người khác để nghiệm chứng, “thì máu không thấm”.
Vì thế, Chu Nguyên Chương mới thu thập di cốt của mẹ an táng lại.
Mặc dù
mộ táng của vợ chồng Chu Nguyên Cương chỉ là một khoảnh đất cực kì bình thường
do Lưu Kế Tổ cho, vả lại sau khi táng cũng không được bình yên vô sự, nhưng sau
khi Chu Nguyên Chương lên làm hoàng đế, người ta lại biên chép ra những truyền
thuyết thần hoá mộ địa. Như Vương Văn Lộc 王文禄
trong Long Hưng Từ kí 兴龙兴慈记 nói rằng:
Chu Nguyên Chương khiêng di thể của cha mẹ đến khoảnh đất mà Lưu Kế Tổ cho, đột
nhiên, “mưa gió nổi lên, dây đứt, đất tự đùn lên thành mộ. Mọi người cho là đã
táng vào cửu long đầu.” Trong Minh triều
tiểu sử 明朝小史 cũng có nói đến “thần táng”.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 23/01/2016
Nguyên tác Trung văn
朱世珍夫妇的身世与殁葬
Trong quyển
MINH TRIỀU ĐẾ VƯƠNG LĂNG
明朝帝王陵
Tác giả: Hồ Hán Sinh 胡汉生
Bắc Kinh Yên Sơn xuất bản xã, 2001
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật