TỪ TÔNG MIẾU ĐẾN TỰ MIẾU
BÀN VỀ CHỮ “MIẾU”
“Miếu” 庙 vào thời cổ chỉ Tổ miếu 祖庙,
tức nơi tế tổ tiên, thờ phụng thần chủ tổ tiên (1). Dạng phồn thể của
chữ “miếu” là 廟, do bộ “nghiễm” 广
và chữ “triều” 朝 tổ thành, thuộc chữ hội ý. 广
biểu thị phòng ốc, 朝 mang ý nghĩa triều đình. Ý nói tông miếu và triều
đình cùng tôn quý. Thời cổ thiên tử có 7 miếu, chư hầu 5 miếu. Giả Nghị 贾谊 trong Quá Tần
luận 过秦论 có viết:
Nhất phu tác nạn nhi thất miếu huỷ, thân
thử nhân thủ vi thiên hạ tiếu.
一夫作难而七庙隳, 身死人手为天下笑
(Một
tên lính tốt bạo loạn mà bảy miếu bị phá huỷ, hoàng tử hoàng tôn đều chết trong
tay người, bị thiên hạ chê cười)
Thiên tử
tại sao lại 7 miếu? Trong Lễ kí – Vương
chế 礼记 - 王制 cho chúng ta biết:
Thiên tử thất miếu, tam Chiêu, tam Mục dữ
Thái Tổ miếu nhi thất (2)
天子七庙, 三昭, 三穆与太祖庙而七.
(Thiên tử 7 miếu, 3 miếu Chiêu, 3 miếu Mục cùng với miếu Thái
Tổ là 7)
“Chiêu
miếu” ở đây chỉ “tử miếu” 子庙 của đế vương (miếu
hàng con của đế vương), “Mục miếu” chỉ “tôn miếu” 孙庙
của đế vương (miếu hàng cháu của đế vương), thêm miếu Thái Tổ tổng cộng là 7 miếu.
Chiêu miếu ở phía tây Thái Tổ miếu, Mục miếu ở phía đông Thái Tổ miếu (3).
Điều này có quy định rõ.
Còn có
việc liên quan đến tông miếu đó là sau khi hoàng đế qua đời, phải lập một miếu
hiệu, đến tông miếu lập thất để phụng thờ. Ví dụ gọi Lưu Bang 刘邦 là Hán Cao Tổ 汉高祖,
“Cao Tổ” ở đây chính là miếu hiệu. Đường Tông, Tống Tổ cũng là miếu hiệu. Lưu Tri Cơ 刘知幾 trong Sử thông
– Xưng vị 史通 - 称谓 viết rằng:
Miếu hiệu thuỷ tự Tam đại
庙号始自三代
(Miếu hiệu bắt đầu từ thời Tam đại)
Lấy đời Thương mà nói, Thái
Giáp 大甲 là Thái Tông 太宗,
Thái Mậu 大戊 là Trung Tông 中宗,
Vũ Đinh 武丁 là Cao Tông 高宗. “Thái Tông” “Trung
Tông” “Cao Tông” ở đây đều là miếu hiệu. Miếu hiệu nếu không “Tổ” thì là “Tông”,
xưng “Tổ” nói chung là người bắt đầu nhận mệnh khai quốc. Triều Minh có điểm
khác, Chu Đệ 朱棣
không phải là vị vua khai quốc, cũng xưng là “Minh Thành Tổ” 明成祖, cho nên người đời sau giải thích chữ “Tổ” này là “lập
công xưng Tổ”.
Thuỵ hiệu khác với miếu hiệu.
Thuỵ hiệu mang ý nghĩa bình phẩm khen chê. Thuỵ hiệu không hạn chế chỉ ở đế
vương, mà một số quan viên cũng có thuỵ hiệu. Một số thuỵ hiệu của đế vương
cũng chính là đế hiệu. Như thuỵ hiệu Chu Văn Vương 周文王,
Chu Vũ Vương 周武王, Hán Vũ Đế 汉武帝, Nguỵ Vũ Đế 魏武帝, Tuỳ Văn Đế 隋文帝, đều có ý nghĩa
căn cứ vào sự tích lúc sinh tiền của người mất mà đánh giá khen chê. Đó là chỗ
khác nhau của thuỵ hiệu với miếu hiệu.
Miếu từ “tông miếu” dẫn đến
nghĩa “nơi thờ phụng”, đương nhiên người được thờ phụng phải là người có tài đức.
Ví dụ để kỉ niệm Khổng Tử 孔子 mọi người lập Khổng
miếu, kỉ niệm Nhạc Phi 岳飞 lập Nhạc miếu, kỉ
niệm Trương Tuần 张巡, Hứa Viễn 许远 tử thủ Tuy Dương 睢阳 trong loạn An Sử lập Song miếu. Còn có Khuất Tử miếu,
Trương Lương miếu, Thái Bạch miếu v.v…
Thần miếu cổ đại vốn không
xưng miếu, về sau Đạo giáo xưng miếu, Phật giáo xưng tự. Như trong Sở từ - Vân trung quân 楚辞 - 云中君, gọi nơi thờ phụng thần linh là “Thọ cung” 寿宫. Câu thơ rằng:
Kiển tương đán hề Thọ cung
Dữ nhật nguyệt hề tề quang
謇将憺兮寿宫
与日月兮齐光
Ở yên nơi Thọ cung
Tranh sáng cùng mặt trời mặt trăng
“kiển” 謇 là phát ngữ từ; “đán” 憺 (âm 旦 đán) ý nghĩa là yên. Ý cả câu là “ở yên nơi Thọ cung”.
Thời cổ
nơi thờ Phật gọi là “tự”, như mọi người gọi Phật tự sớm nhất là Bạch Mã tự 白马寺. Nhưng “tự” nguyên là quan thự hoặc quan xá, như Đại
lí tự 大理寺, Hồng lô tự 鸿胪寺 mượn dùng làm tăng
tự 僧寺. Bạch Mã tự vốn là Hồng lô tự. Cổ tự cũng gọi là “già
lam” 伽蓝, “Phạm cung” 梵宫,
“Thứu phong” 鹫峰, “Tịnh sơn” 净山. Dương Huyễn 杨衒 có tác phẩm Lạc
Dương già lam kí 洛阳伽蓝记 truyền đời. “Già lam” là gọi tắt của “tăng già lam ma”
僧伽蓝摩. “Phạm cung” có liên quan đến Phạm ngữ; “Thứu phong”
tức tên một ngọn núi ở Ấn Độ, nơi Phật tăng cư trú. Phật giáo truyền vào Trung
Quốc từ thời Đông Hán, phát triển vào thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều, cực thịnh
vào thời Tuỳ Đường. Trong Lạc Dương già
lam kí 洛阳伽蓝记 có ghi đến 1300 Phật tự. Đỗ Mục 杜牧 trong bài Giang
Nam
xuân 江南春 có viết:
Đa thiểu lâu đài yên vũ trung
南朝四百八十寺
多少楼台烟雨中
Nhiều lâu đài trong mưa trong khói
Trong
đó cũng dùng “tự” để gọi tăng tự.
Vương Lực
王力 cho rằng miếu trong “Thần miếu” 神庙 là sau khi Đạo giáo sản sinh mới có (4). Về
sau miếu trong Đạo giáo lại được gọi là “quán” 观,
là “cung” 宫. Như trong thơ của Lưu Vũ Tích 刘禹锡 có nói đến “Huyền Đô quán” 玄都观,
và như “Phỉ Liêm Quế quán” 蜚廉桂观 ở Trường An, “Ích Diên Thọ quán” 益延寿观 ở
Cam Tuyền 甘泉; cung như “Thái Thanh cung” 太清宫 ở Lao sơn 崂山.
Chú của
nguyên tác
1- Thuyết văn giải
tự chú 说文解字注, trang 446, mục “miếu” 庙.
Thượng
Hải cổ tịch xuất bản xã.
2- Từ nguyên 辞源 (nhất), trang
20, mục “thất miếu” 七庙.
Thương
vụ ấn thư quán, bản năm 1964.
3- Hán Dương
nghi 汉阳仪 “Chiêu miếu tây, Mục miếu đông” 昭庙西,
穆庙东.
Xem Thông nhã 通雅 trang 879.
Thượng
Hải cổ tịch xuất bản xã.
4- Nhậm Học Lương 任学良:
Cổ Hán ngữ . Thường dụng từ đính chính 古汉语 . 常用词订正, trang 50.
Triết
Giang đại học xuất bản xã.
Huỳnh Chương
Hưng
Quy Nhơn
20/12/2015
Nguyên tác Trung văn
TÙNG TÔNG MIẾU ĐÁO TỰ MIẾU
ĐÀM “MIẾU”
从宗庙到寺庙
谈 “庙”
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã, 1998
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật