ĐỐI LIỄN LÀ
MỘT LOẠI KĨ XẢO NGÔN NGỮ
CŨNG LÀ MỘT
LOẠI NGHỆ THUẬT NGÔN NGỮ
Các
dạng đối liễn đều từ sự khác biệt và biến hoá của tự hình, tự âm, tự nghĩa mà
ra; đối liễn làm ra có được sự khác thường, điển nhã hay không, quyết định ở chỗ
trình độ cao thấp trong việc tu dưỡng văn học cổ điển. Cơ sở của văn học cổ điển
là “tiểu học”, “tiểu học” được phân ra 3 bộ phận, đó là huấn hỗ, văn tự và âm vận.
Huấn hỗ là nghiên cứu tự nghĩa; văn tự nghiên cứu tự hình, âm vận nghiên cứu tự
âm.
Âm
nhạc cổ đại Trung Quốc phân ra 5 âm giai, dùng “cung thương chuỷ vũ giốc” 宫商徵羽角 để kí lục nhạc phổ. Đến thời Lục triều, văn nhân đem
âm giai âm nhạc dẫn vào phạm trù ngôn ngữ, lấy 4 thanh “bình thượng khứ nhập” 平上去入 phân ra thanh điệu của tự âm. Văn nhân thời Lục triều
đem tứ thanh so sánh với ngũ âm, cho rằng âm “thương” không hợp luật, bỏ âm
“thương” đi, “phối cùng tứ thanh thì hợp”. Ngoài Văn tâm điêu long 文心雕龙 của Lưu Hiệp 刘勰
có một chương Thanh luật 声律 ra, còn có Tứ thanh phổ 四声谱 của Thẩm Ước 沈约,
Tứ thanh thiết vận 四声切韵của Chu Ngạn
Luân 周彦伦, Ngũ cách tứ
thanh luận 五格四声论 , Âm phổ quyết nghi 音谱决疑của Vương Bân 王斌, Tứ thanh luận 四声论, Tứ thanh chỉ quy 四声指归của Lưu Thiện Kinh 刘善经
… đều là nhưng chuyên trứ luận thuật về tứ thanh.
Trong
Tứ thanh luận 四声论 , Lưu Thiện
Kinh nói rằng:
Phàm tứ thanh, không tiếng vang nào là không
đến, không lời nào là không thu lấy, tổng quát cả tam tài, bao trùm cả vạn tượng.
Không
chỉ ngôn ngữ của con người có thể phân thành tứ thanh, mà thanh âm của giới tự
nhiên cũng có tứ thanh, tứ thanh thâu tóm thiên địa, bao la vạn tượng. Lưu Thiện
Kinh cho rằng, tứ thanh có thể ví như quỹ đạo của ngôn ngữ, bất kì ai xa rời nó
đều không có cách nào đi được; tứ thanh cũng giống như nơi quy tụ của ngôn ngữ,
bất luận đến nơi nào cũng đều luôn có một nơi để dừng lại.
Thẩm
Ước cho rằng tứ thanh giống như 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông:
Lấy Xuân làm dương trung 阳中, đức trạch không thiên lệch, tức tượng của bình
thanh; cây cỏ mùa Hạ tươi tốt, nóng bức như lửa, tức tượng của thượng thanh,
sương Thu ngưng đọng không rơi, rời rễ xa gốc, tức tượng của khứ thanh, mùa Đông
trời đất bế tàng, vận vật hết thảy đều thu lại, tức tượng của nhập thanh.
Ông
còn cho rằng:
Tứ tượng đã lập thì vạn vật sinh ra, tứ
thanh đã đủ thì những thanh khác được quy loại.
Tứ
thanh có thể đem các loại thanh âm khác quy loại một cách tỉ mỉ chặt chẽ.
Lưu
Thiện Kinh cho rằng:
Trong một thẻ giản, âm vận đã khác nhau;
trong hai câu, nặng nhẹ cũng có khác. Đạt được ý chỉ này, thì mới có thể nói về
văn.
Trong
một đoản ngữ, âm vận của mỗi chữ hết thảy bất đồng; trong hai câu, nặng nhẹ
nhanh chậm của mỗi âm tiết đều có sự khu biệt. Chỉ có nắm vững bí quyết này mới
có thể làm văn. Họ đem tính trọng yếu của âm vận trong bài văn nâng cao đến mức
như thế, là việc mà người đương thời không theo kịp.
Đối
với thành quả nghiên cứu âm vận, văn nhân cũng đã truyền bá ra dân gian, ngay cả
nô bộc của những nhà quyền quý cũng chú ý đến song thanh điệp vận, có thể thấy
công việc điều hoà bằng trắc đến thời Lục triều đã “cáo quyết thành công”. Nhưng
hiện nay ngay cả những người làm công tác ngữ văn đều có chút “đàm âm biến sắc”
谈音变色 (nói về âm thì mặt biến sắc). Điều này đại khái có
liên quan đến việc mấy chục năm coi nhẹ “lãng tụng” 朗诵
(đọc có diễn cảm) và “bội tụng” 背诵 ( đọc thuộc lòng)
trong việc dạy Ngữ văn. Ở trường, lớp trẻ không bội tụng không lãng tụng, không
học thơ cũ, lâu dần đối với âm vận không thông thạo, nó trở nên xa lạ, chỉ có
thiểu số cực ít người làm thơ cũ và một số hí khúc, diễn viên nghệ khúc mới coi
trọng thanh vận.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 11/5/2015
Nguồn
TRUNG HOA ĐỐI LIÊN TẢ TÁC
中华对联写作
Tác giả: La Duy Dương 罗维扬
Trường Sa: Nhạc Lộc thư xã, 2004
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật