THỜI ĐẠI THANH ĐỒNG - TRIỀU THƯƠNG
(Thế kỉ 16 trước công nguyên đến năm 1066 trước công
nguyên)
Lịch sử
Ân Thương 殷商 khoảng từ năm 1562
đến năm 1066 trước công nguyên, kéo dài trên dưới 500 năm. Nếu như nói
triều Hạ 夏 là bắt đầu của văn minh sử của dân tộc Trung Hoa, thì
triều Thương 商 chính là sự kế tục của văn minh sử Trung Hoa.
Cương vực
của triều Thương rất khó xác định. Mãi đến vị quân chủ cuối cùng là Trụ vương 纣王, triều Thương vẫn đang mở rộng cương thổ. Nói chung,
cương thổ của triều Thương tương đối cố định, bắc đến vùng Sơn Tây 山西, Hà Bắc 河北, đông đến biển lớn,
nam kéo dài đến Trường giang 长江, tây tiến vào đến
Thiểm Tây 陕西.
Chế độ
chính trị triều Thương rất đặc sắc. Triều Thương tuy cũng là một đất nước liên
bang có nhiều bang quốc hoặc thủ bang trong cương vực của mình, nhưng loại liên
bang này không thể nói là giống với liên bang bộ lạc nguyên thuỷ. Liên bang này
thông qua một loạt những cuộc chiến tranh mang tính chất chinh phục mà hình
thành, cuối cùng kiến lập nên chế độ phong kiến. Người Ân được xem là trung tâm
của liên bang, chiếm địa vị chủ đạo rõ nét. Quyền lực của Thương vương tuy
không bằng với những vị hoàng đế đời sau, nhưng cũng là trung tâm của quyền lực
thiên hạ. Các bang quốc chư hầu phải phụng mệnh Thương vương xuất chinh, còn phải
định kì hướng đến Thương vương triều bái cống nạp, thậm chí phải giúp Thương
vương tiến hành sản xuất nông nghiệp. Nhưng, do bởi địa vực vương quốc rộng lớn,
phương tiện giao thông liên lạc còn lạc hậu, thủ đoạn kinh tế mà Thương vương
khống chế các bang quốc cũng không được đắc lực, vương quyền vẫn chịu sự hạn chế
quyền lực của các bang quốc. Sơ kì triều Thương, quân vị truyền cho em, truyền
cho cháu và truyền cho con cùng tồn tại. Bắt đầu từ Khang Đinh 康丁 vị đế thứ 26, chế độ con kế thừa vương vị của cha mới
xác định. Sự hỗn loạn trong việc truyền thừa đã cộng thêm sự tranh đoạt quyền lực
trong nội bộ vương triều.
Tiền kì
triều Thương thường dời đô, điều này cho thấy trình độ phát triển kinh tế còn rất
thấp, năng lực chế ngự tai hoạ thiên nhiên cũng có hạn. Đến trung và hậu kì sau
khi định đô ở đất Ân 殷, kinh tế mới có bước
phát triển. Đặc biệt là điều kiện tự nhiên của đất Ân, theo nghiên cứu, tương đối
có lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Do bởi nông nghiệp được coi trọng nên đã
kéo theo sự tiến bộ về các phương diện khác. Ví dụ dần sản sinh một số kĩ thuật
nông nghiệp thúc đẩy sự sản xuất: công trình thuỷ lợi, chăn nuôi canh tác, bón
phân v.v…; đồng thời việc phát minh và chế tạo nông cụ tương quan cũng tiến bộ
rất nhanh. Vật phẩm nông nghiệp của người Ân chủ yếu có tiểu mạch, cao lương, đại
mễ và tiểu mễ. Nhìn từ những ghi chép về việc con người ưa thích
rượu, nghề ủ rượu đã đạt đến trình độ phát đạt tương đối cao. Trong những văn vật
đời Thương phát hiện được, còn có nhiều những di tích về hàng dệt, điều này cho
thấy về nghề dệt cũng đã có thành tựu rất cao.
Từ những
di chi khai quật ở các nơi, đặc biệt là tại Ân Khư 殷墟,
theo sự nâng cao kĩ năng sản xuất và việc triển khai sơ bộ thành thị hoá, quy
mô và trình độ kiến trúc, đặc biệt là kiến trúc có liên quan đến sinh hoạt của
đế vương, cung điện, tường thành, mộ táng … đều đạt đến trình độ tương đối cao.
Riêng dân chúng phổ thông vẫn còn trú ở những phòng ốc bán huyệt cư. Nói tóm lại,
trình độ kiến trúc của triều Thương còn ở vào thời kì quá độ. (còn tiếp)
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 10/3/2015
Nguyên tác Trung văn
THANH ĐỒNG
THỜI ĐẠI – THƯƠNG
青铜时代 - 商
Trong quyển
ĐỒ VĂN TRUNG QUỐC THÔNG SỬ
图文中国通史
(tập Sử tiền sử - Chiến quốc)
Chủ biên: Triệu Hướng Tiêu 赵向标
Tân Cương nhân dân xuất bản xã, 2002.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật