XÃ HỘI ĐỜI NGUYÊN VÀ VĂN HOÁ ĐỜI NGUYÊN
Xã hội
đời Nguyên từ tổng thể mà nói đều là trên cơ sở phát triển đi lên của các đời
trước. Nhìn từ cuộc sống kinh tế, chế độ sở hữu đất đai phong kiến cùng mối
quan hệ giai cấp được kiến lập trên cơ sở này vẫn chiếm địa vị chủ đạo. Nhìn từ
sinh hoạt chính trị, chế độ quan liêu tập quyền trung ương chiếm địa vị thống
trị. Nhìn từ sinh hoạt văn hoá, học thuyết Nho gia vẫn là chủ lưu của tư tưởng.
Chính sách văn hoá đời Nguyên có hai trọng tính, sự phát triển cộng đồng văn
hoá đa dân tộc lấy văn hoá trung nguyên làm chủ, đây là nét đặc sắc lớn của văn
hoá đời Nguyên.
Triều
Nguyên đã thực hiện sự thống nhất trong lịch sử Trung Quốc mà trước đó chưa có,
kết thúc cục diện phân chia nam bắc kéo dài mấy trăm năm, đồng thời khiến nhiều
khu vực biên cương quy thuộc dưới sự quản lí của chính quyền trung ương. Đây là
đặc điểm của lịch sử triều Nguyên khác với đời trước. Thời đại Tống cùng với
Liêu, Kim trước sau ở thế giằng co nhau, hai miền nam bắc ngăn cách rất sâu,
hai bên đều lập ra những chướng ngại, sự giao lưu văn hoá chỉ là ngẫu nhiên, cá
biệt. Ví dụ phương nam thịnh hành Lí học, còn tại phương bắc dưới sự thống trị
của triều Kim, những người hứng thú với nó rất là thưa thớt, không được xem trọng.
Quân Mông Cổ (Nguyên) xuống phía nam, Lí học lên phía bắc, dần trở thành chủ
lưu của giới tư tưởng cả nước. Sau khi triều Nguyên thống nhất, nhân vật nam bắc
qua lại với nhau, cọ xát lẫn nhau, bất luận là sáng tác văn học nghệ thuật, hoặc nghiên cứu học thuật, đều
có tác dụng hữu ích cực lớn. Hội hoạ, thư pháp nam bắc vốn phong cách khác
nhau, sau khi thống nhất đã hỗ tương ảnh hưởng, có thành tựu càng lớn, tạp kịch
xuống phía nam đã thúc đẩy sự phát triển của hí kịch phương nam. Việc biên soạn
Đại nhất thống chí 大一统志 là kết quả của
học giả các tộc nam bắc cùng nỗ lực, còn cục diện đại thống nhất là tiền đề để
có thể biên soạn thành bộ sách này. Nhiều tác gia có thể du lịch danh sơn đại
xuyên của hai miền nam bắc, hiểu rõ phong tục nhân tình, mở rộng tầm nhìn, viết
ra những áng thơ văn hay đẹp. Còn khu vực biên cương sau khi quy phụ triều
Nguyên, mối quan hệ với trung nguyên ngày càng mật thiết, văn hoá truyền thống
của trung nguyên đã truyền đến các nơi ở biên cương, văn hoá các tộc ở biên
cương cũng nối nhau truyền vào trung nguyên, sản sinh ảnh hưởng với những mức độ
khác nhau, khiến văn hoá trung nguyên càng phong phú đa dạng. Một số người Mông
Cổ cùng thành viên các tộc ở tây bắc đến trung nguyên, tiếp thụ văn hoá truyền
thống của trung nguyên, đồng thời về văn học nghệ thuật và học thuật cũng có những
phát minh sáng tạo. Sự phát triển cộng đồng văn hoá đa dân tộc lấy văn hoá truyền
thống trung nguyên làm chủ, đã hình thành nét đặc sắc lớn của văn hoá đời
Nguyên, đây chính là kết quả của việc đại thống nhất mà đời trước chưa có.
Về văn
hoá triều Nguyên đã thực hành 2 chính sách quan trọng. Một mặt, để củng cố sự
thống trị của mình, kẻ thống trị triều Nguyên đã thực hiện rộng rãi “Hán pháp” 汉法, tức các chế độ truyền thống của trung nguyên, tôn sùng
Khổng Tử 孔子 và Nho thuật, lập Nho học, giữa đời Nguyên về sau còn
thực hiện chế độ khoa cử để chọn kẻ sĩ. Trước đây có thuyết cho rằng đời Nguyên
chia người ra làm 10 hạng, nho hạng thứ 9 và ăn xin hạng thứ 10 (nhân phân thập
đẳng, cửu nho thập cái - 人分十等九儒十丐). Kì thực đó
là truyền sai. Triều Nguyên đem cư dân trong cả nước dựa theo chức nghiệp và
các loại hộ theo thành phần dân tộc gọi là “chư sắc hộ kế” 诸色户计, nho hộ là một trong số đó. Theo chính sách của quốc
gia, nghĩa vụ chủ yếu của nho hộ là có người đi học, có thể miễn làm sai dịch,
địa vị cũng gần với tăng hộ, đạo hộ. Triều Nguyên không có chia ra 10 loại hộ,
đương nhiên cũng không tồn tại vấn đề “cửu nho thập cái”. Từ quy định chính
sách mà nói, nho hộ (sĩ nhân triều Nguyên đa số thuộc nho hộ, cũng có một bộ phận
thuộc các loại hộ khác) so với quân hộ, trạm hộ, dân hộ thì nho hộ nhận được sự
ưu đãi. Nhưng mặt khác, triều Nguyên thực hành chính sách áp bức dân tộc và kì
thị dân tộc, biểu hiện tập trung ở chế độ 4 hạng người, tức cư dân cả nước chia
làm 4 đẳng cấp: Mông Cổ 蒙古, Sắc mục 色目, Hán nhân 汉人, Nam nhân 南人, có sự đãi ngộ khác nhau. Mông Cổ và Sắc mục hưởng
các loại đặc quyền; Hán nhân và Nam
nhân luôn chịu sự kì thị, nhất là Nam nhân. Trên con đường sĩ hoạn,
người Mông Cổ và người Sắc mục chiếm vị trí cao, Hán nhân và Nam nhân trừ thiểu
số cực ít ra, số còn lại chỉ có thể ở chịu khuất ở vị trí dưới làm liêu, không
có cửa để thăng tiến. Từ pháp chế mà nói, chỗ nào cũng ủng hộ quyền lợi của người
Mông Cổ người Sắc mục; quyền lợi của Hán nhân và Nam nhân không được sự bảo hộ,
có lúc ngay cả sự an toàn về nhân thân và tài sản cũng bị xâm phạm. Từ văn hoá
mà nói, về phương diện giáo dục, khoa cử khảo thí, sử dụng ngôn
ngữ văn tự, sự kì thị dân tộc cũng biểu hiện rõ nét. Nho hộ nhận được sự ưu
đãi, nhưng quan viên Mông Cổ, Sắc mục làm việc trong chính phủ triều Nguyên, rất
nhiều người đối với văn hoá truyền thống của trung nguyên luôn có thành kiến, từ
đó đối với nho hộ có sự khinh thị thậm chí là đối địch, cưỡng bức họ cũng giống
như dân hộ làm tạp dịch. Nhân đó, hoàn cảnh thực tế của nho hộ luôn cách xa với
tăng hộ, đạo hộ cùng thời đại, càng khó mà sánh với sự đãi ngộ mà nhân sĩ các
triều trước đó hưởng thụ.
Có thể
nhìn thấy, lĩnh vực văn hoá tư tưởng của thời đại này thể hiện sự phức tạp, thế
thái mâu thuẫn. Nói chung, tư tưởng di dân nhớ về cố quốc, theo sự diệt vong của
nhà Kim nhà Tống đã xuất hiện tại phương bắc và phương nam, nhưng trong một thời
gian không dài. Do bởi sự củng cố thống trị của triều Nguyên, thêm vào đó là việc
thực hành rộng rãi chính sách tôn Khổng và tôn phụng nho thuật, đại đa số sĩ
nhân trong Hán nhân và Nam nhân, đã nhận đồng sự thống trị của triều Nguyên một
cách nhanh chóng, đua nhau mưu cầu làm quan, thơ văn ca công tụng đức có thể thấy
khắp nơi. Nhưng, việc thực hiện áp dân tộc bức nghiêm khắc và kì thị dân tộc
không thể không kích động nhiều người trong số họ bất mãn mạnh mẽ đối với xã hội,
trong thơ văn cũng có người kêu gọi kháng nghị, có người đi đến chỗ trốn đời
tiêu cực. Còn có một số nhân sĩ trong việc sáng tác văn nghệ thông thường đã
chuyển tìm một chốn lập mệnh an thân, sự liên kết của họ đã dẫn đến sự phồn
vinh của tạp kịch và tiểu thuyết.
(còn tiếp)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 07/02/2015
Nguyên tác Trung văn
NGUYÊN ĐẠI XÃ HỘI HOÀ NGUYÊN ĐẠI VĂN HOÁ
元代社会和元代文化
Trong quyển
TỐNG NGUYÊN VĂN HOÁ ĐẠI QUAN
宋元文化大观
Chủ biên: Lí Thiếu Lâm 李少林
Nội Mông Cổ Nhân dân xuất bản xã, 2006
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật