NGUỒN GỐC TỪ “TRÀ” VÀ TỪ “TEA”
Tên gọi
“ngoại tiêu trà” 外销茶 phải bắt đầu từ những ghi chép sớm nhất việc dùng vật
đổi trà vào năm 475 khi đoàn thương nhân Thổ Nhĩ Kì 土耳其
theo đường bộ đến Mông Cổ 蒙古 hoặc đến vùng biên
giới Hoa bắc. Cho nên hiện nay chỉ có từ “CHAI” của Thổ Nhĩ Kì vẫn còn bảo lưu
cách phát âm “茶叶” (trà diệp) của vùng trung nguyên Trung Quốc. Với việc
đối ngoại mậu dịch, âm “TAY” (茶 – trà) đã từ Hạ Môn 夏门 vùng Mân nam Trung Quốc xuất ra nước ngoài, thành những
từ như: “TE” của Mã Lai Á, Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Đan Mạch …; từ “THEE” của Đức,
Hà Lan; từ “THE” của Pháp, từ “TEA” của Anh, Mĩ cho tới tên khoa học là “THEA”;
hoặc âm “CHA” của Quảng Đông thuộc Quảng Châu xuất ra nước ngoài, như âm “CHA”
của Nhật Bản, Bồ Đào Nha; âm “TSA” của Việt Nam.
Gọi là
“ngoại tiêu trà” 外销茶 (trà tiêu thụ ở nước ngoài) và “nội tiêu trà” 内销茶 (trà tiêu thụ trong nước) chỉ là danh từ tương đối
trong mậu dịch. “Nội tiêu trà” có thể “ngoại tiêu”, “ngoại tiêu trà” cũng có thể
“nội tiêu”. Cho nên không thể lấy đó làm tiêu chuẩn phân loại.
“Lục
kinh” 六经của Trung Quốc không có ghi chép về chữ 茶 (trà), trước thời Đường, đa phần dùng chữ 荼 (đồ) để chỉ trà, những từ như “hoành” 横, “suyễn du” 荈游, “mính” 茗, “sá” 诧, “tuyển” 选 đều là chữ giả tá của “trà” hoặc thổ âm các vùng; còn
như “khổ trà” 苦茶, “qua lô” 瓜芦, “qua la” 过罗, “vật la” 物罗, cùng với từ “cao
khánh” 高庆 mà hiện nay vẫn tồn tại tại tỉnh Vân Nam 云南, đều có khả năng là chữ khác của âm đọc từ tiếng Hồi.
Đến thời Đường, Tô Cung 苏恭 khi tu đính Bản thảo 本草 (năm 656 – năm 660), mới viết chữ 茶 (trà), nhưng chính thức phổ biến dùng chữ 茶 (trà)
phải tính từ khi Lục Vũ 陆羽 biên soạn quyển Trà kinh 茶经 (năm 780).
Tại nước
ngoài, bất luận là Thánh kinh hay
trong những trứ tác của Sa Sĩ Tỉ Á 沙士比亚 (Shakespeare) đều
không có chữ 茶 (trà). Mãi đến cuối thế kỉ 16, trong bản dịch sang tiếng
Anh từ tác phẩm Lâm Kha Đăng du hành kí 林柯登斿行记 do Hà Lan
xuất bản, bắt đầu gọi là Chaa, tuy
vào năm 1606 người Hà Lan buôn bán trà Trung Quốc từ Áo môn 澳门 đến
Trảo Oa 爪哇 (Java) (1), năm 1610 thông qua thuyền buôn
chở trà đến châu Âu, nhưng mãi đến 1644 khi thương nhân Anh quốc sáng lập nghiệp
vụ mậu dịch trà tại cảng Hạ Môn, mới dùng âm Te (Tay), thổ âm Hạ Môn của chữ 茶,
viết thành T-e-a.
Trong
việc phân loại thời kì đấu đối với trà Trung Quốc, cách tạo chữ và đặt tên rất
có ý nghĩa, như chữ 楠 (nam) trong câu: Nam , khổ trà dã 楠,
苦茶也 viết với chữ 木
(mộc), do bởi những cây trà vùng Vân Nam 云南,
Tứ Xuyên 四川 đều thuộc loại “kiều mộc” 乔木
(cây cao to). Nhưng sau khi truyền đến vùng Á nhiệt đới như Ấn Độ, Miến Điện,
Thái Lan lại diễn biến thành loại A Tát Mẫu 阿萨姆
(Assam )
(2) lá to, vị tương đối đắng và chát.
Mính 茗 viết với bộ “thảo” là loại cây nhỏ, thấp, mọc thành bụi,
lá nhỏ, mọc vào mùa đông, chịu được lạnh,
sinh trưởng vùng hàn đới hoặc ôn đới, vị đắng và chát tương đối ít. Tại Trung
Quốc các tỉnh ở khu vực Giang bắc, Giang
nam, Đông nam, cùng Nhật Bản, Nga có thể trồng, thích hợp chế biến thành loại lục
trà 绿茶 và thanh trà 青茶.
Có thể
thấy, bất luận là cách tạo chữ hoặc đặt tên cho thực vật của người Trung Quốc cổ
đại đều rất phù hợp với khoa học.
Vũ nhã 雨雅 là bộ từ điển bác vật sớm nhất của Trung Quốc, theo lời
chú đương thời (năm 265 – năm 419):
楠, 苦茶也 … 今呼早采为茶, 晚取为茗
(Nam
là khổ trà ….. Nay gọi loại hái sớm là “trà”, loại hái muộn là “mính”)
có thể trà Trung Quốc gọi theo cách phân loại hái sớm.
Sau khi
trải qua những thi từ truyền tụng của văn nhân, trà cổ đại Trung Quốc càng truyền
bá nhanh chóng, trở thành thức uống phổ cập đại chúng. Trương Tái (Tải) 张载, thi nhân đời Tuỳ (3), trong bài Đăng Thành Đô Bạch Thố lâu 登成都白菟楼 đã viết:
Phương trà quán lục thanh
Dật vị bá cửu khu (4)
芳茶冠六清
溢味播九区
(Trà thơm đứng đầu cả lục thanh
Vị ngon truyền khắp cả cửu châu)
Đến thời
Đường, Bạch Cư Dị 白居易 đã ca tụng trà Mông Đính 蒙顶
của Tây Thục:
Cầm lí tri văn duy Lục thuỷ (5)
Trà trung cố cựu thị Mông sơn
琴里知闻唯淥水
茶中故旧是蒙山
(Trong những khúc đàn, nổi tiếng có khúc Lục thuỷ
Trong những loại trà, từng quen thuộc loại trà Mông
sơn)
Đây là câu thơ ca tụng trà tương đối sớm.
Chú của người
dịch
1- Trong nguyên tác in nhầm là Trảo Huề 爪畦.
2- A Tát Mẫu 阿萨姆: tức Assam ,
một bang ở đông bắc Ấn Độ, nơi đây có sản xuất loại hồng trà.
3- Trương Tái
(Tải) 张载: tác giả bài Đăng Thành Đô Bạch Thố lâu 登成都白菟楼 tự Mạnh Dương 孟阳là
văn học gia thời Tây Tấn.
4- Hai chữ cuối ở câu đầu trong nguyên tác in nhầm là
“lục tình” 六情, không phải “lục thanh” 六清.
Lục thanh六清: tức “lục ẩm” 六饮
mà trong Chu lễ 周礼nói đến, chỉ 6 loại thức uống mà thiên tử dùng, gồm: thuỷ 水, tương 浆, lễ 醴, lương 凉, y 医, di 酏.
Thuỷ 水: tức nước uống
Tương 浆: tức rượu có vị giấm
Lễ 醴: tức rượu ngọt
Lương 凉: tức rượu nhẹ, có nồng độ thấp
Y 医: loại hỗn hợp gồm rượu ngọt với cháo lỏng
Di 酏: tức cháo lỏng.
5- Hai câu này trong bài Cầm trà 琴茶 của Bạch Cư Dị 白居易.
Trong
nguyên tác, câu đầu là:
Cầm lí tri vi văn lục thuỷ
琴里知微闻綠水
Nhưng theo Bạch Cư Dị thi tập hiệu chú 白居易詩集校注, do Tạ Tư
Vĩ 謝思煒 biên soạn, Trung Hoa thư cục xuất bản năm 2006, 2 câu
đó như sau:
Cầm lí tri văn duy Lục thuỷ
Trà trung cố cựu thị Mông sơn
琴里知闻唯淥水
茶中故旧是蒙山
“Lục thuỷ” 淥水, viết với bộ
氵 không phải bộ 糸
như trong nguyên tác. “Lục thuỷ” tên một khúc nhạc cổ.
Tôi
theo Bạch Cư Dị thi tập hiệu chú 白居易詩集校注 sửa lại.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 13/01/2015
Nguyên tác Trung văn
“TRÀ” DỮ “Tea” ĐÍCH DO LAI
“茶” 与 “Tea”的由来
Trong quyển
TRUNG QUỐC TRÀ VĂN HOÁ
中国茶文化
Tác giả: Kha Thu Tiên 柯秋先
Trung Quốc Kiện Tài công nghiệp xuất bản xã, 2006
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật