献马取宠, 咎由自取
周厉王 (1) 使芮伯 (2) 帅师伐戎 (3), 得良马焉, 将以献于王. 芮季 (4) 曰: “不如捐 (5) 之. 王欲无厌, 而多信人之言. 今以师归而献马焉, 王之左右必以予获为不止一马, 而皆求于予. 予无以应之, 则将哓 (6) 于王, 王必信之. 是贾祸 (7) 也. 弗听, 卒献之. 荣夷公 (8) 果使有求焉, 弗得, 遂谮 (9) 诸王: “伯也隐”. 王怒逐芮伯. 君子谓芮伯亦有罪焉.尔知王之渎货 (10) 而启之, 芮伯之罪也.
(郁離子 - 慎微)
HIẾN
MÃ THỦ SỦNG, CỬU DO TỰ THỦ
Chu Lệ Vương (1) sử Nhuế Bá
(2) soái sư phạt Nhung (3), đắc lương mã yên, tương dĩ hiến
vu vương. Nhuế Quý (4) viết: “Bất như quyên (5) chi.
Vương dục vô yếm, nhi đa tín nhân chi ngôn. Kim dĩ sư quy nhi hiến mã yên,
vương chi tả hữu tất dĩ dư hoạch bất chỉ nhất mã, nhi giai cầu vu dư. Dư vô dĩ ứng
chi, tắc tương hiêu (6) vu vương, vương tất tín chi. Thị cổ hoạ (7)
dã. Phất thính, tốt hiến chi. Vinh Di Công (8) quả sử hữu cầu yên, phất đắc, toại
trấm (9) chư vương: “Bá dã ẩn”. Vương nộ trục Nhuế Bán. Quân tử vị
Nhuế Bá diệc hữu tội yên. Nhĩ tri vương chi độc hoá (10), Nhuế Bá
chi tội dã.
(Úc Li Tử - Thận vi)
DÂNG NGỰA ĐỂ MONG ĐƯỢC SỦNG ÁI, LỖI DO
MÌNH GÂY RA.
Chu Lệ
Vương sai Nhuế Bá thống lĩnh quân đội đi thảo phạt Tây Nhung, bắt được một con
ngựa hay, Nhuế Bá muốn dâng con ngựa đó lên Chu Lệ Vương. Nhuế Quý can rằng:
Chi bằng bỏ ý định đó đi. Đại vương tham
không biết chán, vả lại cũng thích nghe theo những sàm ngôn của người khác. Nay
ban sư trở về dâng ngựa lên cho ông ta, bọn cận thần tả hữu nhất định cho rằng
anh không chỉ có được một con ngựa, bọn họ sẽ đến đòi hỏi ở anh. Anh không có
gì để đáp ứng, bọn họ sẽ gièm siểm anh trước mặt đại vương, đại vương tất tin
những lời của họ. Như vậy là rước cái hoạ đến đấy.
Nhuế Bá
không nghe theo lời khuyên, cuối cùng đem ngựa dâng lên Chu Lệ Vương. Quả nhiên
Vinh Di Công 荣夷公 sai người đến Nhuế Bá đòi quà, nhưng vì không có, nên
vu hoạ Nhuế Bá trước mặt đại vương. Chu Lệ Vương cả giận, trục xuất Nhuế Bá. Bậc
quân tử khi nói về chuyện này đều nói Nhuế Bá cũng có lỗi. Đã biết đại vương
tham lam vô độ, thế mà lại đi quyến dụ lòng tham của ông ta, đó chính là lỗi của
Nhuế Bá.
CHÚ GIẢI
(1)- Chu Lệ Vương 周厉王: vị quân chủ
nhà Tây Chu.
(2)- Nhuế Bá 芮伯: khanh sĩ của
Chu Lệ Vương.
(3)- Nhung 戎: từ phiếm xưng
chỉ dân tộc thiểu số phương Tây vào thời cổ Trung Quốc.
(4)- Nhuế Quý 芮季: em trai Nhuế
Bá, cũng là khanh sĩ của Chu Lệ Vương.
(5)- Quyên 捐: bỏ đi.
(6)- Hiêu 哓: kêu gào
(7)- Cổ hoạ 贾祸: Chữ 贾 (cổ) vốn được giảng là mua, ở đây mang nghĩa đưa đến.
Cổ hoạ, dẫn tai hoạ tới.
(8)- Vinh Di
Công 荣夷公: sủng thần của Chu Lệ Vương.
(9)- Trấm 谮: vu hoạ, làm bị
thương tổn.
(10)- Độc hoá 渎货: chữ 渎 thông với chữ 黩.
Tham ô.
CHÚ CỦA NGƯỜI
DỊCH
ÚC LI TỬ 郁離子: là tác phẩm của Lưu Cơ 刘基
đời Minh, gồm 18 thiên (chương), với 195 tắc, đa phần là ngụ ngôn (181 tắc).
Nhìn từ nội dung, trong Úc Li Tử
không ít ngụ ngôn ẩn dụ về tình hình chính trị và xã hội cuối đời Nguyên, nói
lên những điều không tốt của thế sự lúc bấy giờ, phúng thích nhà cầm quyền xa
lánh người hiền tin dùng bọn gian nịnh, bổ dụng bà con thân thích. Còn có không
ít những tắc ngụ ngôn nhắm vào sự lạc hậu ngu muội tương đối điển hình, phẩm hạnh
thấp kém và hiện tượng nhân luân không hợp của xã hội cuối đời Nguyên. Đồng thời
với việc châm biếm khuyên răn, tác phẩm còn vạch rõ thái độ nhân sinh chính
xác, cho người đọc sự gợi mở và giáo dục sâu sắc. Có tắc báo cho người đời
không nên mất cảnh giác với kẻ địch, có tắc cảnh báo không nên mê tín, cũng có
tắc khuyên răn chớ tự cao tự đại, xử lí chính vụ phải nắm được mấu chốt của vấn
đề. Toàn sách đề tài phong phú, ngôn ngữ sắc bén, ngụ ý sâu xa. So với những trứ
thuật khác của Lưu Cơ, Úc Li Tử càng
phản ánh nhiều triết học quan, chính trị quan, kinh tế quan, đạo đức quan, nhân
tài quan của ông cùng với thành tựu văn học. Nó cũng phản ánh chủ trương an
bang định quốc của ông.
Tắc này
ở thiên Thận vi 慎微
LƯU CƠ 刘基 (1311
– 1375): tự Bá Ôn 伯温, người làng Nam Điền 南田
huyện Thanh Điền 青田 (nay là huyện Văn Thành 文成tỉnh
Triết Giang 浙江). Ông là nhà mưu lược quân sự, nhà chính trị và là
nhà thơ cuối đời Nguyên đầu đời Minh, thông kinh sử, hiểu thiên văn, tinh binh
pháp. Lưu Cơ phò tá Chu Nguyên Chương 朱元璋 hoàn thành nghiệp
đế, khai sáng triều Minh, đồng thời ra sức gìn giữ sự ổn định quốc gian nhân đó
mà nổi danh khắp thiên hạ. Lưu Cơ được người đời sau xem như Chư Cát lượng 诸葛亮.
Khi mất
ông có tên thuỵ là Văn Thành 文成
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/01/2015
Nguồn
ÚC LI TỬ
郁离子
Tác giả: Lưu Cơ 刘基
Dịch chú: Mộc Tử 木子
Thượng Hải – Học Lâm xuất bản xã, 2002.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật