MAI
Lệ chi vô hảo
hoa, mẫu đơn vô mĩ thực
荔枝无好花, 牡丹无美实
(Lệ chi không có hoa đẹp, mẫu đơn không có quả ngon)
Quả thực đó là một hiện tượng phổ
biến trong giới thực vật. Trừ hoa và quả của mỗi loại thực vật đều có cấu tạo
hình thái đặc định ra, một cây thực vật, vật chất dinh dưỡng có hạn nếu dùng để
nuôi hoa to và đẹp thì khó mà sinh quả lớn và ngon. Ngược lại, nếu nuôi quả thì
hoa sẽ kém. Nhưng, trong cái phổ biến cũng có đặc thù, như mai 梅, hạnh 杏, đào 桃, lí 李 vừa có hoa đẹp lại
có quả ngon, cả hai có đủ. Hơn nữa chúng đều là danh hoa danh quả nguyên sản tại
Trung Quốc, đáng được coi trọng.
Ở
đây chỉ nói đến hoa mai “băng thanh ngọc khiết, hương u phấn diễm”. Hiện tại
nơi sơn cốc huyện Đan Ba 丹巴 vùng thượng du sông
Đại Độ 大渡tỉnh Tứ Xuyên 四川,
nơi Sơn Gian Đài 山间台 huyện Hội Lí 会理
vùng hạ du sông Nhã Lung 雅砻, vùng núi biên giới
Xuyên Ngạc 川鄂, cùng với vùng núi Hưng An 兴安
tỉnh Quảng Tây 广西, đều có mai mọc hoang. Trong Thi kinh – Tần phong 诗经 - 秦风 có câu:
Chung Nam hà
hữu?
Hữu điều hữu
mai
终南何有
有条有梅
(Núi Chung Nam có gì?
Có cây điều cây mai)
Đào
Hoằng Cảnh 陶弘景 trong Danh y biệt
lục 名医别录 có nói: Mai,
Sinh Hán
trung xuyên cốc
生汉中川谷
(Mọc nơi xuyên cốc ở Hán trung)
Có thể thấy, thời cổ mai đã mọc
hoang nơi nam bắc Tần lĩnh.
Trong
Thi kinh có ghi chép về mai trồng:
Biểu hữu mai
…….. khuynh khuông hí chi
標有梅, ….., 倾筐墍之
(Quả mai đã rụng , ….., nghiêng giỏ mà nhặt lấy)
(Thiệu Nam
召南)
Sơn hữu giai
huỷ, hầu lật hầu mai
山有佳卉,侯栗侯梅
(Trên núi có cây tốt , cây lật và cây mai)
(Tiểu nhã 小雅)
Mộ môn hữu
mai , hữu hiêu tuỵ chỉ
墓门有梅,有鴞萃止
(Nơi cửa mộ có cây mai, có chim hiêu đậu lên đó)
(Trần phong 陈风)
Thi cưu tại
tang, kì tử tại mai
鳲鸠在桑, 其子在梅
(Chim thi cưu ở trên cây dâu, chim con thì ở trên cây
mai)
(Tào phong 曹风)
Từ
Sơn Tây đến lưu vực Hoàng hà của Sơn Đông đều có trồng mai. Trong Hạ tiểu chính 夏小正 có ghi:
Chinh nguyệt
mai hạnh di đào tắc hoa
正月梅杏柂桃则华
(Tháng giêng, mai hạnh di đào ra hoa)
Ngũ nguyệt chử
mai
五月煮梅
(Tháng 5 nấu mai)
Hạ tiểu chính có khả năng là
sách của nước Kỉ 杞 thời Xuân Thu, được Khổng Tử xưng tụng. Nó bảo tồn được
một số phong tục tập quán đời Hạ. “Tắc hoa” 则华
(花) là nói mai là cây theo mùa, “chử mai” 煮梅 chỉ ra công dụng của mai. Như vậy, lịch sử trồng mai
và dùng mai làm thực phẩm có thể truy ngược lên đến trước thời Chu .
Trong
Tả truyện 左传cũng có ghi:
Hoà như canh
yên, thuỷ hoả ê hải diêm mai, dĩ phanh ngư nhục.
和如羹焉, 水火醯醢盐梅, 以烹鱼肉
(“Hoà”
giống như nấu canh, dùng nước, lửa cùng các gia vị khác như giấm, tương, muối,
mai để nấu cá thịt)
“Ê” 醯 và “hải” 醢 là giấm và tương, đem mai xếp cùng giấm tương muối,
có thể thấy lúc bấy giờ mai là một loại gia vị.
Mọi
người đều biết câu chuyện “vọng mai chỉ khát” 望梅止渴 (1) của Tào Tháo 曹操,
đó là ghi chép sớm nhất về việc ăn sống trái mai. Trong Tề dân yếu thuật 齐民要术 dẫn lời ở Thi
nghĩa sớ 诗义疏:
Mai, hạnh loại dã, thụ cập diệp giai như hạnh
nhi hắc nhĩ. Thực xích vu hạnh nhi thố, diệc khả sinh đạm. Chử nhi bộc can vi …
(2), trí canh hoắc tê trung, hựu khả hàm dĩ hương khẩu; diệc mật
tàng nhi thực.
梅, 杏类也, 树及叶皆如杏而黑耳. 实赤于杏而酢, 亦可生啖也. 煮而曝干为 … (2), 置羹臛齑中, 又可含以香口; 亦蜜藏而食.
(Mai thuộc loại hạnh, cây và lá đều giống cây hạnh nhưng đen. Quả đỏ hơn quả hạnh
và chua, có thể ăn sống. Nấu lên rồi phơi khô làm …, bỏ vào canh thịt, cũng có
thể ngậm để thơm miệng, cũng có thể ướp với mật để ăn.)
Trừ
tác dụng điều vị ra, còn ăn sống và làm mứt tương đồng với hiện đại. Cũng có thể
chế biến thành ô mai 乌梅 và bạch mai 白梅 dùng làm dược liệu, là món thuốc hạ khí trừ nhiệt, công
dụng này cũng đã có ghi chép từ rất sớm…
Chú của người dịch
(1)- Trong Thế
thuyết tân ngữ 世说新语 có chép câu chuyện “Vọng mai chỉ khát” 望梅止渴 như sau:
望梅止渴
魏武行役, 失汲道, 军皆渴, 乃令曰: “前有大梅林, 饶子, 甘酸, 可以解渴.” 士卒闻之, 口皆出水, 乘此得及前源.
(世说新语)
VỌNG
MAI CHỈ KHÁT
Nguỵ Vũ hành dịch, thất cấp đạo, quân
giai khát, nãi lệnh viết: “Tiền hữu đại mai lâm, nhiêu tử, cam toan, khả dĩ giải
khát.” Sĩ tốt văn chi, khẩu giai xuất thuỷ, thừa thử đắc cập tiền nguyên.
(Thế thuyết tân ngữ)
NHÌN HƯỚNG VỀ RỪNG MAI MÀ HẾT KHÁT
Nguỵ Vũ
Đế dân binh hành quân, tìm không được nguồn nước, quân sĩ đều khát, Nguỵ Vũ Đế
liền truyền lệnh rằng: “Phía trước có một rừng mai lớn, quả rất nhiều, vừa ngọt
vừa chua, có thể giải khát được.” Quân sĩ nghe qua, miệng người nào cũng ứa nước
bọt. Nhân cơ hội đó, cuối cùng tìm được nguồn nước.
(2)- Ở đây là chữ gồm có bộ “thảo”
艹, phía dưới bên trái là chữ “âm” 音, bên phải là chữ “hoà” 禾, vì không biết âm đọc và ý nghĩa nên tạm
để trống.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/10/2014
Trích từ nguyên tác Trung văn trong quyển
HOA DỮ VĂN HỌC
花与文学
Tác giả: Giả Tổ Chương 贾祖璋
Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2001.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật