THƯƠNG HIỆT – ÔNG TỔ CỦA VĂN TỰ HÁN
VÀ TRUYỀN THUYẾT SÁNG TẠO VĂN TỰ
Từ thời
Chiến Quốc đã lưu hành truyền thuyết Thương Hiệt 仓颉
sáng tạo văn tự.
Tại
vùng Quan Trung 关中 ở
Thiểm Tây 陕西 có một người tên là Thương Hiệt. Ông sinh ra đã có 4
mắt, mắt ông ta luôn đầy ghèn, nhưng từ hai đôi mắt đó phát ra tia sáng dị thường,
quan sát sự vật vô cùng rõ ràng. Thương Hiệt xoả tóc, để râu, mình mặc da thú,
ngồi trên tấm da của một loại mãnh thú, tay luôn cầm bút, nói chuyện cùng với
người đối diện, dường như đang suy nghĩ điều gì. Đầu của Thương Hiệt cũng khác
với người thường, đỉnh đầu nhô cao lộ vẻ thông minh đặc biệt.
Thương
Hiệt thường cưỡi lừa bôn ba khắp cao nguyên hoàng thổ ở Thiểm Tây, vượt núi
băng sông, đi khắp các châu các quận, tìm hiểu phong tục tập quán dân gian, thu
thập phù hiệu ngôn ngữ lưu hành trong dân gian. Lúc bấy giờ chưa có giấy, ông
đem những tài liệu thu thập được viết lên lá lau sậy rồi bỏ vào trong túi để lừa
thồ đi. Tư liệu mà Thương Hiệt thu thập rất nhiều, đựng đến mấy túi, con lừa đi
đến huyện Kì Sơn 岐山 của Thiểm Tây ngày nay vì quá mệt nên đã chết.
Thương
Hiệt mang những túi này, không có lừa không thể đi tiếp nên đã tìm một gian lều
cỏ lưu lại. Thương Hiệt không ngừng quan sát thiên tượng, ngẩng đầu nhìn kĩ mặt
trăng biến hoá khi tròn khi khuyết, còn thấy rõ hiện tượng diễn biến của núi
sông mưa gió, phân biệt được dấu chân của các loài điểu thú, hoặc dấu tích của
dã thú, xe cộ lưu lại khi đi qua, khu biệt được sự giống nhau và khác nhau của
các loại dấu vết, đồng thời bắt đầu sáng tạo ra văn tự. Thương Hiệt không quản
ngày đêm, chăm chỉ quan sát suy ngẫm.
Một đêm
nọ, Thương Hiệt mệt đến nỗi đầu óc tối tăm, lại thêm cóc trong ao kêu liên tục, quấy rầy sự suy nghĩ của
ông. Lúc đó, Thương Hiệt đang nghĩ đến việc làm sao tạo ra 2 chữ “xuất” (ra) và
“trọng” (nặng). Bỗng cóc kêu lên một tiếng, kết quả ý nghĩa của chữ bị đảo lộn.
Chữ 山 (sơn) ở trên có thêm chữ
山 nữa vốn có nghĩa là nặng, chữ 千 (thiên) chữ 里 (lí) vốn có nghĩa là
xa; nhưng Thương Hiệt lại cho chữ 出 (xuất) có nghĩa là
“ra”, cho chữ 重 (trọng) có nghĩa là nặng. Đêm đã khuya, Thương Hiệt
nhấc bút lên chấm đầy mực, tức giận quăng bút, mực văng đến miệng cóc. Theo
truyền thuyết, mãi đến nay, bên mép của cóc ở vùng Kì Sơn Thiểm Tây đều đen cả!
Như vậy, Thương Hiệt hội ý tạo chữ, sáng tạo ra 24 chữ cổ. Sau khi Thương Hiệt
tạo ra chữ đã cảm động thần linh, gạo từ trên trời rơi xuống, quỷ thần ban đêm
cũng kinh hãi khóc lên. Chẳng bao lâu, Thương Hiệt vâng mệnh thống nhất văn tự
và lãnh đạo các quan viên cải cách văn tự. Thương Hiệt còn là vị sử quan của
Hoàng Đế, ghi chép sự việc, những việc lớn liên quan đến ghi chép của bộ tộc
cũng đều do Thương Hiệt nắm giữ. Từ đó đã diễn dịch thành câu chuyện Thương Hiệt
có liên quan mật thiết đến việc sáng tạo văn tự.
Quê
hương của Thương Hiệt nay tại làng (trấn) Sử Quan 史官
huyện Bạch Thuỷ 白水 tỉnh Thiểm Tây 陕西,
đời Hán đã lập miếu Thương Hiệt. Ngoài ra tại huyện Đông A 东阿 Sơn Đông 山东 (nay trong địa phận
Dương Cốc 阳谷), ngoại ô phía tây huyện Thọ Quang 寿光 Sơn Đông山东 mỗi nơi có một toà
miếu Thương Hiệt. Tại làng (trấn) Sử Quan 史官
huyện Bạch Thuỷ 白水 nay hiện còn miếu Thương Hiệt và di chỉ mộ Thương Hiệt.
Trong miếu có bia miếu, mặt trước và mặt sau của bia có tổng cộng hơn 910 chữ,
đáng tiếc đã phá hoại nghiêm trọng, chữ bị tàn khuyết. Năm 1975 bia được dời đến
Viện bảo tàng Tây An西安 để bảo tồn.
Trong mắt
người cổ đại, Thương Hiệt là vị Thần, vị
Bồ tát sáng tạo văn tự. Truyền thuyết kể rằng tại sông Tần 濒 phía cửa tây thành của huyện Thọ Quang 寿光 có một người tên Lưu Văn Hoà 刘文和
nhiều năm đọc sách. Lúc còn niên thiếu đến đọc sách ở một tư thục, mỗi lần về đều
phải qua sông, thường được một ông lão râu trắng cõng đưa qua. Sau một khoảng
thời gian dài như thế, Lưu Văn Hoà hỏi ông lão:
Xin hỏi tôn tính đại danh của ông, tại sao lại
thường giúp cháu?
Ông lão
đáp rằng:
Ta được Thần Thương Hiệt phái đến giúp, sau
này nếu cháu giàu sang phú quý, chớ có quên Thần Thương Hiệt đó.
Sau khi
Lưu Văn Hoà làm quan đã đến thăm miếu Thương Hiệt, gặp được một ông lão giữ miếu,
hình thái và dung mạo của ông lão này nhìn rất quen, vì thế đã bỏ tiền trùng tu
miếu thờ và mộ Thương Hiệt.
Sự hình
thành văn tự luôn là một quá trình tiệm sinh, không phải trong nhất thời và do
một người tạo ra. Trong bộ Tuân Tử 荀子 thời Tiên Tần
có nói: Người thích văn tự thì rất nhiều, duy chỉ một mình
Thương Hiệt tạo ra chữ và truyền lại. Trong Lã
Thị Xuân Thu 吕氏春秋 cũng có thuyết Thương Hiệt tạo chữ, chí ít nói rõ lúc bấy giờ Thương
Hiệt là một chuyên gia giỏi về thư khế văn tự. Đương nhiên, ở giai đoạn này
không phải là điểm bắt đầu sáng tạo văn tự mà cũng không phải là điểm cuối cùng
sáng tạo văn tự. Truyền thuyết Thương Hiệt tạo chữ có giá trị văn hoá riêng biệt
của nó..
Truyền
thuyết Thương Hiệt tạo chữ cách nay đã hơn 2000 năm, hơn nữa cũng có ghi chép lại,
nhưng mức độ tin cậy lại rất thấp. Về niên đại của truyền thuyết Thương Hiệt tạo
chữ, có lẽ là vào thời đại sản sinh giáp cốt văn. Còn có khả năng Thương Hiệt
là một nhân vật đại loại như vu sư 巫师 rất có ảnh hưởng
trong bộ tộc của Hoàng Đế 黄帝. Thời kì thượng cổ, vu sư và sử quan do một người đảm nhiệm,
về phương diện này Thương Hiệt đã có cống hiến, điều đó khiến mọi người dễ dàng
nhận lầm người làm công việc sưu tập chỉnh lí văn tự là người sáng tạo văn tự.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 21/6/2014
Nguyên tác Trung văn
HÁN VĂN TỰ ĐÍCH TỔ TIÊN THƯƠNG HIỆT
HOÀ TẠO TỰ ĐÍCH
TRUYỀN THUYẾT
汉文字的祖先仓颉和造字的传说
Trong quyển
HÁN TỰ ĐÍCH CỐ SỰ
汉字的故事
Tác giả: Úc Nãi Nghiêu 郁乃尧
Quang Minh nhật báo xuất bản xã, 2005.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật