雅事与俗事
山栖是胜事 (1), 稍一萦恋 (2), 则亦市朝 (3); 书画赏鉴是雅事, 稍一贪痴 (4), 则亦商贾 (5); 诗酒是乐事, 稍一曲人 (6), 则亦地狱; 好客是豁大事, 稍一为俗子所挠, 则亦苦海.
(小窗幽记)
NHÃ
SỰ DỮ TỤC SỰ
Sơn thê thị thắng sự (1), sảo
nhất oanh luyến (2), tắc diệc thị triều (3); thư hoạ thưởng
giám thị nhã sự, sảo nhất tham si (4), tắc diệc thương cổ (5);
thi tửu thị lạc sự, sảo nhất khúc nhân (6), tắc diệc địa ngục; hiếu
khách thị hoác đại sự, sảo nhất vi tục tử sở nhiễu, tắc diệc khổ hải.
(Tiểu song u
kí)
Chú thích
(1)- Sơn thê 山栖: ẩn cư trong rừng
núi. Thắng sự 胜事: tức diệu sự, hảo sự.
(2)- Oanh luyến
萦恋: lưu luyến không nỡ rời bỏ.
(3)- Thị triều 市朝: chỉ nơi nhiều
người tụ tập tranh danh đoạt lợi.
(4)- Tham si 贪痴: tham luyến, si
mê.
(5)- Thương cổ 商贾: từ gọi chung
thương nhân.
(6)- Khúc nhân 曲人: khuất tùng
theo người khác.
Dịch nghĩa
NHÃ SỰ VÀ TỤC SỰ
Ẩn cư
nơi rừng núi là việc hay, nhưng một khi quyến luyến không nỡ xa rời thì khác gì
ở chốn thị triều; thưởng thức thư hoạ là việc tao nhã, nhưng một khi tham lam
si mê, thì cũng giống người đi buôn; thơ rượu là việc vui, nhưng một khi vì người
khác mà ứng thù, thì đó là địa ngục; hiếu khách là việc tốt, nhưng một khi bị hạng
phàm phu quấy nhiễu, thì đó là bể khổ.
Phân tích và
thưởng thức
Trong
cuộc sống của con người đầy những mâu thuẫn, thái quá cũng như bất cập, vật đi
đến chỗ cùng cực sẽ biến đổi. Người ở ẩn chốn núi rừng bản ý là xa lánh nơi ồn
ào bụi bặm, nhưng đối với việc ẩn cư trổi dậy lòng tham luyến không nỡ bỏ, thì
đó là đã đi ngược với bản ý, hoà nhập với thế tục. Viết chữ vẽ tranh nguyên vốn
là một việc tao nhã, nhưng nếu sa vào buôn bán cốt để làm giàu thì đó chẳng
khác nào người đi buôn, còn gì tao nhã để mà nói? Uống rượu làm thơ vốn là việc
khoái lạc, điều mà gọi là “ca chi vịnh chi, vũ chi đạo chi”, nếu không có hứng,
mà chỉ để ứng phó với người thì đó là việc vô cùng đau khổ; giao tiếp bạn bè
cũng như thế, người quân tử kết giao với nhau nhạt như nước, nếu khách đến
không từ, cứ huyên náo ồn ào thì đó cũng giống như ở vào bể khổ. Cho nên, muôn
sự muôn vật đều phải tính đến cái độ, rời xa cái độ tương ứng, thì chỉ gặp những
điều trái ngược.
Chú của người
dịch
Tiểu
song u kí 小窗幽记 là tác phẩm
ghi lại những cách ngôn tu thân xử thế do Trần Kế Nho 陈继儒biên
soạn, thể hiện thái độ nhân sinh tích cực của nho gia về việc tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ. Tác phẩm này xưa nay được xem là giai tác về việc tu
dưỡng bản thân.
Toàn sách
được chia làm 12 quyển:
quyển 1: tập
tỉnh 集醒 quyển 2: tập
tình 集情 quyển 3: tập
tiễu 集峭
quyển 4: tập
linh 集灵 quyển 5: tập
tố 集素 quyển 6:
tập cảnh 集景
quyển 7: tập
vận 集韵 quyển 8: tập
kì 集奇 quyển 9:
tập ỷ 集绮
quyển 10: tập hào 集豪 quyển 11: tập pháp 集法 quyển 12: tập thiến 集倩
Tiểu song u kí được dùng ở đây do Lôi
Phương 雷芳 chú dịch, Sùng Văn thu cục xuất bản năm 2007, sách
này không chia thành 12 quyển như ở
trên.
Trần Kế Nho 陈继儒 (1558 – 1639):
văn học gia, thư hoạ gia đời Minh, tự Trọng Thuần 仲醇,
hiệu Mi Công 眉公, người Hoa Đình 华亭
Tùng Giang 松江 (nay là Tùng Giang Thượng Hải).
Trần Kế Nho lúc nhỏ đã thông
minh, ông học rộng biết nhiều, giỏi cả thơ lẫn văn, về thư pháp theo Tô Thức 苏轼, Mễ Phế 米芾 nổi tiếng một thời.
Khoảng những năm hai mươi mấy tuổi, ông tuyệt ý với khoa cử, ẩn cư tại Tiểu Côn
sơn 小昆山, sau cất nhà tại Đông Xà 东佘
suốt ngày đóng cửa viết sách. Triều đình nhiều lần cho mời nhưng ông đều lấy cớ
bệnh tật từ chối.
Trần Kế Nho cả một đời đọc rất
nhiều, trứ thuật cũng đồ sộ phong phú. Tác phẩm của ông có Trần Mi Công toàn tập 陈眉公全集 truyền đời.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 17/6/2014
Nguyên tác
NHÃ SỰ DỮ TỤC SỰ
雅事与俗事
Trong quyển
TIỂU SONG U KÍ
小窗幽记
Tác giả: Trần Kế Nho 陈继儒
Chú dịch: Lôi Phương 雷芳
Sùng Văn thư cục, 2007.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật