NGOẠI
CƯỜNG TRUNG CAN
外强中干
NGOÀI CỨNG TRONG
KHÔ
Giải
thích: “can” 干 có nghĩa là khô kiệt, trống rỗng.
Thành ngữ dùng để ví bề ngoài thì mạnh mẽ nhưng thực chất bên trong lại mềm yếu.
Xuất
xứ: Xuân Thu .
Tả Khâu Minh 左丘明:
Tả truyện – Hi Công thập ngũ niên 左传 - 僖公十五年
Thời
Xuân Thu, Tấn Huệ Công 晋惠公 đích thân dẫn quân giao chiến với quân Tần. Huệ Công ra lệnh
cho thủ hạ đem những chiến mã của nước mình đang đóng ở xe tháo ra, thay vào đó
là những con ngựa cao lớn mà do nước Trịnh tiến cống. Đại thần Khánh Trịnh 庆郑 nói với Tấn Huệ Công rằng:
Từ xưa tới nay, các nước khi giao chiến với
nhau luôn sử dụng ngựa của nước mình để đóng vào xe. Ngựa của nước Tấn xem ra
tuy gầy yếu một chút, nhưng chúng thích ứng được với thuỷ thổ của nước ta, biết
rõ đường đi nước bước, lại trải qua huấn luyện, khi điều khiển vừa lòng thuận
tay có thể tin tưởng được. Ngựa nước Trịnh tuy bề ngoài nhìn rất bắt mắt, nhưng
thực tế ngoài cứng trong khô, khi giáp trận lỡ bị kinh hãi, chúng sẽ không nghe
theo người chỉ huy, đứng ngây một chỗ, nhảy đá loạn lên. Nay ngài muốn dùng những
con chiến mã như thế để giao tranh với nước Tần, không thất bại thì không thể.
Một khi trên chiến trường sa vào tình huống tiến không được, lui cũng không
xong, không có cách nào đối phó với quân địch, lúc đó có hối hận cũng không kịp.
Tấn
Huệ Công không nghe lời can của Khánh Trịnh, vẫn dùng ngựa của nước Trịnh đóng
vào xe tác chiến. Kết quả, khi lâm trận trống trận nổi lên, những tiếng la hét
kinh thiên động địa trên chiến trường khiến chiến mã của nước Trịnh hoảng sợ.
Chiến xa của Tấn Huệ Công sa vào hố bùn, không cách nào thoát được, đành phải
bó tay chịu bắt, trở thành tù binh của quân Tần.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 18/4/2014
Nguyên tác Trung văn
NGOẠI CƯỜNG TRUNG CAN
外强中干
Trong quyển
TRUNG QUỐC THÀNH NGỮ
CỐ SỰ TỔNG TẬP
中国成语故事总集
(tập 1)
Chủ biên: Đường Kì 唐麒
Trường Xuân – Thời đại
văn nghệ xuất bản xã, 2004.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật