TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA “THI KINH”
Thi kinh 诗经 là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, là những tuyển lục
thơ ca từ đầu thời Chu đến giữa thời Xuân Thu.
Do vì lúc bấy giờ học tại phủ quan, chỉ có giai tầng quý tộc mới có thể nắm được
văn hoá, cho nên tác giả của các thiên trong Thi kinh mà có thể biết chủ
yếu là những nhân vật quý tộc. Cũng do bởi các thiên sau khi hợp với nhạc được
dùng trong những trường hợp lễ nhạc, cho nên Thi kinh là văn học quý tộc tiêu chuẩn. Người thu thập và quản lí
các thiên trong Thi kinh là nhạc quan
của vương triều Chu . Nhạc quan sở dĩ có được
những thơ ca này, đại khái có 3 nguồn:
- Vương
triều sáng tác để tế tự quỷ thần, đề cao công nghiệp, kỉ niệm thắng lợi cùng vì
các mục đích đặc thù, như các thiên trong Chu tụng 周颂.
- Là những
sáng tác của sĩ đại phu ca công tụng đức, của bạn bè tặng cho nhau, phê phán hiện
thực, bộc lộ tình cảm, hoặc thông qua trực tiếp dâng lên, hoặc bị nhạc quan của
vương triều trưng tập, như rất nhiều thơ ca trong Tiểu nhã 小雅, Đại nhã 大雅.
- Các
chư hầu đều có Nhạc quan nắm giữ nhạc ca của nước mình, chư hầu một mặt tiếp thụ
nhạc từ vương triều ban cho, mặt khác đem nhạc ca của nước mình dâng lên vương
triều, như rất nhiều thơ ca trong 14 quốc phong ngoài Vương phong 王风 cùng Lỗ tụng 鲁颂, Thương tụng 商颂.
Thông
qua 3 con đường trên, nhạc quan vương triều Chu đã nắm giữ không ít thơ ca, tuỳ thời tăng gia, tuỳ lúc
biên tuyển, trải qua hơn 500 năm cuối cùng mới biên định thành Thi kinh. Cho nên nói Thi kinh do nhạc quan các thời kì của
vương triều Chu biên tập. Có điểm cần phải nói
rõ là, 300 thiên đều là nhạc ca, đều có thể phối nhạc để múa và diễn xướng, cho
nên trong Mặc Tử - Công Mạnh 墨子 - 公孟 có chép Mặc Tử 墨子
từng nói:
Tụng Thi tam bách, huyền Thi tam bách,
ca Thi tam bách, vũ Thi tam bách.
诵诗三百,弦诗三百,歌诗三百,舞诗三百.
(Tụng 300 thiên kinh Thi,
đàn 300 thiên kinh Thi, ca 300 thiên kinh Thi , múa 300 thiên kinh Thi).
Nhìn chung Thi kinh phân làm 3 loại, tức phong 风, nhã 雅, tụng 颂.
- Phong bao gồm Chu nam 周南, Thiệu nam 召南, Bội 邶, Dung 鄘, Vệ 卫, Vương 王, Trịnh 郑, Tề 齐, Nguỵ 魏, Đường 唐, Tần 秦, Trần 陈, Cối 桧, Tào 曹, Bân 豳, hợp xưng
là “Thập ngũ quốc phong”, tổng cộng có 160 thiên. Phong vốn là tên gọi chung các nhạc khúc, Quốc phong 国风 tức nhạc khúc của các nước.
- Nhã có Tiểu nhã 小雅 và Đại nhã 大雅, hợp xưng là
“Nhị nhã” 二雅, tổng cộng có 105 thiên, đều là thơ ca của khu vực
“vương kì” 王畿 do vương triều Tây Chu trực tiếp thống trị, đa số là
tác phẩm của quan lại triều đình. “Nhã” 雅
được mượn làm chữ “Hạ” 夏, nhân vì vương kì
Tây Chu xưng là “Hạ”, cho nên nhạc quan dùng
chữ “Hạ” để đánh dấu thơ đến từ vương kì Tây Chu.
- Tụng có Chu tụng 周颂, Lỗ tụng 鲁颂, Thương tụng 商颂 hợp xưng là “Tam tụng” 三颂, tổng cộng có 40
thiên. Tụng có nghĩa là ca tụng, ca ngợi, tam tụng chủ yếu là những nhạc ca mà
triều đình Tây Chu, nước Lỗ, nước Tống hoặc các quý tộc dùng trong tế tự hoặc
trong những điển lễ quan trọng khác, cũng có một số thiên ca ngợi người thống
trị đang tại vị. Có thuyết cho “tụng” 颂 mượn làm chữ “dung” 容, chỉ dáng múa.
Xét các
thiên đều là nhạc ca, mà ca múa lúc bấy giờ là nhất thể, không chỉ có “tam tụng”,
rất nhiều thiên trong phong, nhã cũng
có mối tương quan mật thiết với vũ đạo.
Trong
Thập ngũ quốc phong, Chu Nam có 11
thiên, Thiệu Nam 14 thiên, đều là tác
phẩm của phương Nam. Tương truyền lấy huyện Thiểm 陕
của Hà Nam 河南 hiện nay làm ranh giới, Chu Công 周公, Thiệu Công 召公 chia nhau cai trị
đông tây, Chu nam là thơ ca ở khu vực
phương nam dưới sự thống trị của Chu Công, Thiệu
nam là thơ ca ở khu vực phương nam dưới sự thống trị của Thiệu Công. Thơ ca
của “Nhị nam” xa đến lưu vực Giang, Hán, nói rõ sự kinh doanh và khống chế của
Tây Chu đối với phương nam. Nhưng về niên đại sáng tác các thiên trong “Nhị
nam” xưa nay vẫn còn tranh luận. Cách nói truyền thống, thơ ở “Nhị nam” là thơ
của thời Chu Văn Vương, là thơ sớm nhất trong Thi kinh, riêng Phùng Nguyên Quân 冯沅君,
Lục Khản Như 陆侃如 trong Trung Quốc
thi sử 中国诗史 lại nói thơ “Nhị nam” thơ muộn nhất trong Thi kinh.
Bội, Dung, Vệ
tổng cộng có 39 thiên, đều xuất phát từ đất Vệ. Thơ nước Vệ tại sao lại chia 3,
tại sao lại để chữ Bội, chữ Dung lên đầu, cách nói vẫn chưa rõ ràng. Cương thổ
nước Vệ nay tại phía nam Hà Bắc và phía bắc Hà Nam ,
thơ nước Vệ đa số là tác phẩm thời Đông Chu .
Vương
phong có 10 thiên, là tác phẩm trong vương kì sau khi Chu Bình Vương 周平王dời đô về Lạc Ấp 洛邑.
Cương thổ của Đông Chu tại phía bắc Hà Nam hiện nay.
Trịnh phong
có 21 thiên, đều là thơ sau khi Trịnh Vũ Công 郑武公
dựng nước, đều là tác phẩm thời Đông Chu .
Cương thổ nước Trịnh tại trung bộ Hà Nam hiện nay.
Tề phong có
11 thiên, trừ 4 thiên Nam sơn 南山, Tệ cẩu 敝笱, Tái khu 载驱, Y ta 猗嗟 có thể biết là tác phẩm thời Đông Chu ra, còn lại đều
không rõ. Cương thổ nước Tề tại phía
đông bắc và trung bộ Sơn Đông hiện nay.
Nguỵ phong
có 7 thiên, đều là tác phẩm ở vào giai đoạn trước khi nước Nguỵ bị nước Trịnh
diệt vào thời Chu Huệ Vương 周惠王thứ 16 (năm 661 trước
công nguyên) nhà Đông Chu. Cương thổ nước Nguỵ tại phía tây nam Sơn Tây hiện
nay.
Đường phong
có 12 thiên, có thể đều là tác phẩm thời Đông Chu .
Nước Đường 唐tức nước Tấn 晋, cương thổ tại trung
bộ Sơn Tây hiện nay.
Tần phong có
10 thiên, đều là tác phẩm thời Đông Chu . Trước
thời Đông Chu, cương thổ nước Tần tại trung bộ Thiểm Tây hiện nay, sau khi Chu
Bình Vương dời đô đã mở rộng đến vương kì Tây Chu.
Trần phong
có 10 thiên, có tác phẩm thời Đông Chu , cũng
có tác phẩm có
khả năng ở thời Tây Chu. Thiên Chu lâm 株林 châm biếm Trần Linh Công 陈灵公
tư thông với Hạ Cơ 夏姬, trong Tả truyện
左传 ghi là vào năm Tuyên Công 宣公 thứ 9 (năm 600 trước
công nguyên), có khả năng là thơ muộn nhất trong Thi kinh. Nước Trần tại phía đông nam Hà Nam và phía bắc An Huy hiện nay.
Cối phong có 4 thiên, đều là tác phẩm thời
Tây Chu. Nước Cối tại trung bộ Hà Nam
hiện nay, đầu thời Đông Chu bị Trịnh Vũ
Công 郑武公diệt.
Tào phong có 4 thiên, trong đó Phù du 蜉蝣, Hầu nhân 候人 là tác phẩm thời
Đông Chu, còn 2 thiên còn lại không rõ. Nước Tào tại phía tây nam Sơn Đông hiện
nay.
Bân phong có 7 thiên, đều là tác phẩm thời
Tây Chu. Đất Bân tại huyện Tuân 栒, huyện Bân 邠 Thiểm Tây hiện nay. Có thuyết cho Bân phong 豳风 tức Lỗ phong 鲁风.
Về “Nhị
nhã”, Tiểu nhã có 74 thiên, Đại nhã có 31 thiên, đều là thơ ở vương
kì Tây Chu, một số ít có thể được hoàn thành vào thời Đông Chu .
Vương kì Tây Chu tại trung bộ Thiểm Tây hiện
nay.
Về “Tam
tụng”, Chu tụng có 31 thiên, đều là
tác phẩm của vương triều thời Tây Chu, đa số là thơ từ thời Chiêu vương 昭王, Mục Vương 穆王 trở về trước. Đặc
biệt là 6 bài Đại Vũ 大武 (Ngã tương 我将, Vũ 武, Chước 酌, Hoàn 桓, Lại 赉, Bàn 般) đã tái hiện trước sau sự việc Chu Vũ Vương phạt Trụ và
Chu Công đông chinh, đó phải là thơ sớm nhất trong Thi kinh.
Lỗ tụng có 4 thiên, đều là tác phẩm thời
Đông Chu, trong đó, Phán thuỷ 泮水, Bí cung 閟宫 được sáng tác để ca tụng Lỗ Hi Công 鲁僖公, đã đến giữa thời Xuân Thu. Cương thổ nước Lỗ tại
phía nam Sơn Đông hiện nay.
Thương tụng có 5 thiên, là thơ ca của nước
Tống thời Tây Chu, là tác phẩm trước thời Xuân Thu. Nước Tống tại phía đông Hà Nam và
phía tây bắc Giang Tô hiện nay.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 03/10/2013
Nguyên tác Trung văn
“THI KINH” ĐÍCH CƠ BẢN TÌNH HUỐNG
“诗经”的基本情况
Trong quyển
KINH HỌC THẬP NHỊ GIẢNG
经学十二讲
Chủ biên: Trịnh Kiệt Văn 郑杰文,
Phó Vĩnh Quân 傅永军
Bắc Kinh - Trung Hoa thư cục, 2007
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật