NGUỒN GỐC TOTEM
(tiếp theo)
Vậy thì
rốt cuộc sự sùng bái Totem bắt đầu từ lúc nào? Nó có nguồn gốc ra sao? Nếu phân
tích một thần thoại Totem cổ đại của Trung Quốc, chúng tôi cho rằng Totem bắt
nguồn từ cách giải thích của tiên dân thời viễn cổ đối với hiện tượng mang thai
và sinh sản. Trong Thi – Thương tụng –
Huyền điểu 诗 - 商颂 - 玄鸟 có nói:
Thiên mệnh huyền điểu
Giáng nhi sinh Thương
天命玄鸟
降而生商
(Trời ra lệnh cho huyền điểu
Xuống trần để sinh ra nhà Thương)
Ở đây nếu
gạt bỏ tư tưởng “Thiên mệnh” của thời kì Thương Chu, thì có thể thấy, người
Thương tự cho tộc Thương là do huyền điểu sinh ra. Đối với vấn đề này, trong Sử kí – Ân bản kỉ 史记 - 殷本纪 có ghi, thuỷ tổ của tộc Thương là ông Khế 契:
Mẹ là bà Giản Địch,
con gái của họ Hữu Nhung ….. 3 người đang tắm, thấy huyền điểu làm rơi trứng.
Giản Địch liền nuốt lấy, nhân đó sinh ra ông Khế.
Quan niệm bà tổ ăn một loại
động thực vật nào đó hoặc có tiếp xúc qua mà sinh ra hậu duệ là tín niệm cốt
lõi nhất trong việc sùng bái Totem của người nguyên thuỷ. Quan niệm này, một mặt
phản ánh con người lúc ban sơ không biết quan hệ tính giao cùng với mang thai
có mối quan hệ, mặt khác lại phản ánh tiên dân thời viễn cổ từng tồn tại tư duy
cảm ứng hỗ tương tác dụng và ảnh hưởng tiền logique (1). Chúng ta biết
rằng nhân loại từ động vật tiến hoá lên, lúc ban sơ chỉ là những yêu cầu sinh
lí và xung động tình cảm có phương diện tính giao của bản năng, mà hoàn toàn
không biết rằng kết quả mang thai là do loại hành vi này mang lại. Cho nên, ở
thời đại đồ đá mới lúc chế độ thị tộc chưa xuất hiện, nhân loại chưa có tri thức
đầy đủ về phương diện quan hệ giữa tính giao và mang thai. Về phương diện tượng
trưng cho hành vi thụ thai và mang thai của nam nữ tính giao (thai động lần đầu
tiên) có cự li rất xa; mặt khác nam nữ tính giao rất tuỳ tiện, vả lại mọi tính
giao chưa chắc đều sinh con, vì vậy cho rằng tính giao và việc mang thai sinh
con không có quan hệ gì là điều đương nhiên. Nhưng, nhu cầu hiểu biết của nhân
loại lại thúc giục họ ra sức tìm ra cách giải thích mà họ cho là hợp lí đối với
việc mang thai sinh sản. Dưới tác dụng của cơ chế “hỗ sấm tư duy” 互渗思维 “tiền logique” đương thời (tức những sự vật có thể thấy
và không thể thấy trên thế giới đều hỗ tương quan hệ, hỗ tương thẩm thấu, hỗ
tương cảm ứng, hỗ tương chuyển hoá), rất tự nhiên, người phụ nữ đã đem việc
thai động của thai nhi ở mẫu thể cùng với những gì đã trông thấy, đã tiếp xúc
hoặc đã ăn liên hệ lại với nhau, cấu thành suy lí nhân quả của người nguyên thuỷ,
từ đó họ cho rằng mang thai và sinh sản là kết quả của một loại động thực vật
nào đó tiến vào mẫu thể. Người A Lan Đạt 阿兰达
(Aranda) cư trú ở trung bộ Australia thì cho rằng, mang thai và tính giao cùng
tác dụng làm cha không có mối liên hệ gì, mà chỉ là “kết quả của tinh linh
Totem tiến nhập vào mẫu thể”. Nhân đó, “khi vợ của một người A Lan Đạt sinh cho
ông ta một đứa con hỗn huyết, ông ta không hề cảm thấy kinh ngạc hoặc lo âu, mà
cho rằng đó chỉ là do bởi bà ta ăn phải loại bột mì mà người châu Âu có được” (2).
Cho nên chúng tôi cho rằng, sự sùng bái Totem bắt nguồn từ cách giải thích của
phụ nữ ở xã hội nguyên thuỷ về hiện tượng mang thai và sinh sản của họ, cũng là
một cách giải thích về nguồn gốc tự thân nhân loại của người nguyên thuỷ trong
tình hình họ không hiểu gì về tính giao và mang thai, cách giải thích ấy chịu sự
chi phối của cơ chế tư duy nguyên thuỷ đó là con người và tự nhiên, giữa vật tự
nhiên với vật tự nhiên đều có thể hỗ tương chuyển hoá cảm ứng, nó có được sự
phát triển mạnh mẽ theo yêu cầu của người nguyên thuỷ mong người đông, nối đời
không dứt, và đã hình thành một hình thức sùng bái riêng.
Nếu Totem đã bắt nguồn từ
cách giải thích của người nguyên thuỷ về hiện tượng bản thân mang thai và sinh
sản thì Totem lúc ban đầu chỉ là Totem cá nhân. Thử nghĩ xem, thời đại hồng
hoang trước xã hội thị tộc, con người đối với mối quan hệ sinh sản và tính giao
không biết gì, vật mà các thai phụ khi thai động trông thấy, hoặc tiếp xúc qua,
ăn qua, hoàn toàn khác nhau, như vậy vật tự nhiên mà mẫu thể cảm ứng cũng đa dạng,
Totem đương nhiên cũng thiên hình vạn trạng, không gì không có. Cho nên, cấu
thành Totem có thể là động vật, cũng có thể là thực vật, cũng có thể là những vật
tự nhiên hoặc hiện tượng tự nhiên khác. Trong một số vật Totem, có thể là có ích
cho nhân loại, cũng có thể có hại đối với nhân loại; vừa có thể có mối quan hệ
trực tiếp đối với cuộc sống kinh tế săn
bắt hái lượm của con người, cũng có thể không có quan hệ gì với nguồn thức ăn
cùng với sản xuất kinh tế của con người. Lúc bấy giờ căn bản không thuộc xã hội
thị tộc, lúc ban đầu cũng không có cái gọi là đoàn thể xã hội giới tính, đương
nhiên sẽ không có Totem thị tộc thống nhất và Totem đoàn thể giới tính, mà chỉ
có thể là Totem cá nhân muôn hình muôn vẻ. Rõ ràng, nhân lúc bấy giờ là thời đại
kinh tế săn bắn hái lượm, trong cuộc sống hàng ngày của mọi người, động thực vật
là loại thường gặp nhất, đặc biệt là một số động vật có “linh” tính như con người,
có thể vận động, có sinh có tử, cho nên số lượng Totem động vật trong sự sùng
bái Totem cũng nhiều nhất. Totem thị tộc và Totem giới tính là loại Totem mà
sau khi thời đại xã hội tiến vào chế độ thị tộc hoặc trong xã hội tồn tại một số đoàn thể “xã hội” dựa theo giới
tính mà tổ thành, nhân nhu cầu của xã hội, đã khuếch đại trên cơ sở Totem cá
nhân. Những thần thoại Totem như Tu Kỉ 修己
vợ ông Cổn 鲧 “thấy sao băng, mộng tiếp ý thành, nuốt ngọc thần”
sinh ra ông Vũ 禹; bà Giản Địch 简狄
của tộc Thương nuốt trứng huyền điểu sinh ra ông Khế 契;
bà Khương Nguyên 姜原 của tộc Chu giẫm lên dấu chân người khổng lồ sinh ra
ông Khí 弃; bà Nữ Tu 女修 của nhà Tần nuốt trứng
huyền Điểu sinh ra Đại Nghiệp 大业 v.v… là những thần
thoại được sản sinh khi xã hội tiến vào chế độ thị tộc mẫu hệ cùng với trong
quá trình chuyển hoá từ mẫu hệ sang phụ hệ. Những thần thoại Totem này không chỉ
là cách giải thích của một phụ nữ nào đó trong xã hội nguyên thuỷ đối với hiện
tượng mang thai và sinh sản của mình, mà nó còn là một cách giải thích của một
bà tổ tưởng tượng nào đó đối với nguồn gốc của bổn tộc. Những ông tổ ở đây như
ông Vũ, ông Khế, ông Khí, Đại Nghiệp … thuộc tù trưởng bộ lạc tính tộc bán thần
bán nhân. Cho nên, loại thần thoại Totem này là thần thoại đại biểu cho toàn tộc;
Totem trong loại thần thoại này là Totem tộc.
CHÚ CỦA NGUYÊN TÁC
(1)- [Pháp] Liệt Duy . Bố Lưu Nhĩ 列维布留尔 biên soạn, Đinh Do 丁由
dịch: Nguyên thuỷ tư duy 原始思维, Thương vụ ấn
thư quán, 1981.
(2)- Kiều Trị . Bỉ Đắc . Mục Đạt Khắc 乔治 . 彼得 . 穆达克: Ngã môn đương
đại đích nguyên thuỷ dân tộc 我们当代的原始民族, trang 28, Tứ Xuyên tỉnh Dân tộc nghiên cứu sở, 1981.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 11/9/2013
Nguyên tác Trung văn
ĐỒ ĐẰNG ĐÍCH KHỞI NGUYÊN
图腾的起源
Trong quyển
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN MINH ĐÍCH THÁM SÁCH
中国古代文明的探索
Tác giả: Vương Chấn Trung 王震中
Vân Nam
nhân dân xuất bản xã, 2005.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật