TÁC
GIẢ BÀI “SỪ HOÀ NHẬT ĐƯƠNG NGỌ” LÀ AI?
Hãn trích hoà hạ
thổ
Thuỳ tri bàn trung
xan
Lạp lạp giai tân
khổ
锄禾日当午
汗滴禾下土
谁知盘中餐
粒粒皆辛苦
Cày ruộng đương lúc ban trưa
Từng giọt mồ hôi rơi xuống
Có ai biết được cơm trên mâm
Từng hạt từng hạt biết bao cay đắng
Bài
thơ ca ngợi nhân dân lao động, chúng ta
thường dùng bài thơ này để giáo dục con cháu. Nhưng tác giả của nó là ai, đến
nay vẫn còn là một bí ẩn.
Cách
nói truyền thống là: Bài Sừ hoà nhật
đương ngọ là một trong Mẫn nông nhị
thủ 悯农二首 cũng gọi là Cổ phong nhị thủ 古风二首, do Lí Thân 李绅 (772 – 846) thi nhân đời Đường sáng tác. Lí Thân là người
Vô Tích 无锡
Giang Tô 江苏,
tự Công Thuỳ 公垂,
ông không chỉ là một trong những người khởi xướng phong trào Tân nhạc phủ thời
trung Đường, mà còn là người thực tiễn viết Tân nhạc phủ sớm nhất, từng vì đụng
đến bọn quyền quý mà bị hạ ngục. Sáng tác của ông có Nhạc phủ tân đề 乐府新题 20 bài, phong cách thơ của ông
đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời thơ tân nhạc phủ của Nguyên Chẩn 白稹, Bạch Cư Dị 白居易.
Nhưng
có người cho rằng, bài thơ này là do nhà thơ đương thời Nhiếp Di Trung 聂夷中 (1) sáng tác. Trong Toàn Đường thi 全唐诗 đem 4 câu thơ này xếp
vào loại ngũ ngôn tứ tuyệt vừa để ở mục tên Nhiếp Di Trung, vừa để ở mục tên Lí
Thân. Nhiếp Di Trung trong Điền gia nhị
thủ 田家二首 đã viết rằng:
Phụ canh nguyên
thượng điền
Tử tước sơn hạ
hoang
Lục nguyệt hoà vị
tú
Quan gia dĩ tu
thương
Sừ hoà nhật đương
ngọ
Hãn trích hoà hạ
thổ
Thuỳ tri bàn trung
xan
Lạp lạp giai tân
khổ
父耕原上田
子削山下荒
六月和未秀
官家已修仓
锄禾日当午
汗滴禾下土
谁知盘中餐
粒粒皆辛苦
Cha cày ruộng trên cao
Con vỡ hoang dưới núi
Tháng sáu lúa chưa chín
Mà nhà quan đã sửa kho rồi
Cày ruộng đương lúc ban trưa
Từng giọt mồ hôi rơi xuống
Có ai biết được cơm trên mâm
Từng hạt từng hạt biết bao cay đắng
Bốn
câu Sừ hoà nhật đương ngọ ở đây có
thêm cước chú là:
Thử thiên nhất tác
Lí Thân thi
此篇一作李绅诗
(Thiên này có thuyết cho là thơ của
Lí Thân)
Trong
Toàn phương bị tổ 全芳备祖, bản khắc in đời Tống do nhà xuất bản Nông nghiệp xuất bản
năm 1982, đã cung cấp đầu mối mới. Bộ sách này thành sách vào giữa thế kỉ thứ
13, nó được xem là từ điển thực vật học sớm nhất trên thế giới. Ở hậu tập quyển
20, dưới mục “Ngũ ngôn tuyệt cú” có bài:
Xuân chủng nhất lạp
túc
Thu thâu vạn khoả
tử
Tứ hải vô nhàn điền
Nông phu do ngạ tử
春种一粒粟
秋收万颗子
四海无闲田
农夫犹饿死
Mùa xuân gieo một hạt thóc
Đến mùa thu gặt được vạn hạt
Khắp nơi không để ruộng hoang
Thế mà nông phu hãy còn bị chết
đói
cho là của Lí Thân.
Và ở mục “Ngũ ngôn cổ thi” có thu thập toàn văn bài Điền gia 田家 của Nhiếp Di Trung:
Phụ canh nguyên
thượng điền
Tử tước sơn hạ
hoang
Lục nguyệt hoà vị
tú
Quan gia dĩ tu
thương
Sừ hoà nhật đương
ngọ
Hãn trích hoà hạ
thổ
Thuỳ tri bàn trung
xan
Lạp lạp giai tân
khổ
Nhị nguyệt mại tân
ti,
Ngũ nguyệt thiếu
tân cốc.
Y đắc nhãn tiền
sang,
Oan khước tâm đầu
nhục
Ngã nguyện quân
vương tâm
Hoá tác quang minh
chúc
Bất chiếu ỷ la
diên
Chỉ chiếu đào vong
ốc
父耕原上田
子削山下荒
六月和未秀
官家已修仓
锄禾日当午
汗滴禾下土
谁知盘中餐
粒粒皆辛苦
二月卖新丝
五月粜新谷
医得眼前疮
剜却心头肉
我愿君王心
化作光明烛
不照绮罗筵
只照逃亡屋
Cha cày ruộng trên cao
Con vỡ hoang dưới núi
Tháng sáu lúa chưa chín
Mà nhà quan đã sửa kho rồi
Cày ruộng đương lúc ban trưa
Từng giọt mồ hôi rơi xuống
Có ai biết được cơm trên mâm
Từng hạt từng hạt biết bao cay đắng
Tháng hai bán tơ mới dệt
Tháng năm bán thóc mới có.
Tuy chữa được vết thương trước mắt,
Nhưng lại khoét mất thịt trong
lòng.
Cầu mong lòng quân vương
Hoá thành ngọn đuốc sáng
Đừng soi nơi chiếu tiệc của người
mặc lụa là gấm vóc
Mà nên soi nơi nhà của những người
không có cái ăn đã bỏ đi tìm cái ăn.
Theo
Đường thi kỉ sự 唐诗纪事, thì Nhiếp Di Trung:
Phấn thân thảo trạch,
bị thường tân sở, vưu vi thanh khổ
奋身草泽,备尝辛楚,尤为清苦
(Xuất
thân chốn quê mùa, nếm đủ mùi tân khổ, cuộc sống nghèo nàn thanh bạch)
Do
bởi ông xuất thân bần hàn, sau khi thi đậu chỉ làm qua huyện uý tiểu lại, một
chức quan nhỏ, vì thế ông hiểu được nỗi thống khổ của nông dân, rất thông cảm với
cuộc sống nghèo nàn thanh bạch của họ, ông đả kích hiện tượng bóc lột nông dân
trong xã hội phong kiến. Thơ của Nhiếp Di Trung mà trong Toàn Đường thi thu thập, những bài như bài Điền gia 田家 phản ánh hiện thực cuộc sống
nông dân và cảnh tượng nông thôn chiếm đến 1/4 . Nhìn từ điểm này, bài thơ này
rất giống tác phẩm của Nhiếp Di Trung.
Trong
Bắc mộng toả ngôn 北梦琐言 ghi rằng:
….. hữu Nhiếp Di Trung, ….. tinh vu cổ thể,
hữu “Công tử gia” thi vân:
Chủng hoa vu tây
viên
Hoa phát thanh lâu
đạo
Hoa hạ nhất hoà
sinh
Khử chi vi ác thảo
Hựu
vân:
Sừ hoà nhật đương
ngọ
Hãn trích hoà hạ
thổ
Thuỳ tri bàn trung
xan
Lạp lạp giai tân
khổ
…..
有聂夷中, ….. 精于古体, 有 “公子家” 诗云:
种花于西园
花发青楼道
花下一禾生
去之为恶草
又云:
锄禾日当午
汗滴禾下土
谁知盘中餐
粒粒皆辛苦
(…..
có Nhiếp Di Trung, ….. giỏi cổ thể, có bài “Công tử gia” 公子家 rằng:
Trồng hoa ở tây viên
Hoa nở phía bên lầu
Dưới hoa mọc một lên cây lúa
Nhổ bỏ đi vì cho là loài cỏ xấu
Và có bài:
Cày ruộng đương lúc ban trưa
Từng giọt mồ hôi rơi xuống
Có ai biết được cơm trên mâm
Từng hạt từng hạt biết bao cay đắng).
Tác giả sách là Tôn Quang Hiến 孙光宪 , người khoảng thời Ngũ đại đến
thời Tống, khi ông viết thành sách này cách thời đại của Nhiếp Di Trung chưa đến
mấy chục năm, thì hầu như có thể tin được.
Như
vậy, tác giả chân chính của bài Sừ hoà nhật
đương ngọ không phải là Lí Thân, mà là Nhiếp Di Trung. Nhưng có người lại đề
xuất, chỉ dựa vào Bắc mộng toả ngôn
mà đoán định vẫn chưa thể khiến mọi người hoàn toàn tin phục. Xem ra, bí ẩn về
tác giả bài Sừ hoà nhật đương ngọ còn
cần phải đợi sự khảo chứng nhiều hơn của các học giả.
CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
(1)- NHIẾP DI TRUNG 聂夷中 (837 – 884): tự Thản Chi 坦之, người Hà Đông, có thuyết cho
là Hà Nam, thi đậu năm Hàm Thông 咸通 thứ 12 (năm 871). Do bởi thời cuộc động loạn, ông lưu lại
Trường An rất lâu, sau đó được bổ chức Uý ở huyện Hoa Âm. Phong cách thơ của
Nhiếp Di Trung bình dị nhưng nội dung rất sâu sắc. Tác phẩm đại biểu có Vịnh điền gia 咏田家, Điền gia nhị thủ
田家二首,
Đoản ca 短歌,
Tảo phát Nghiệp bắc kinh cổ thành 早发邺北经古城,
Tạp oán 杂怨. Trong đó được lưu truyền rộng
rãi có Vịnh điền gia và bài 1 của Điền gia nhị thủ. Riêng bài 2 của Điền gia nhị thủ, người đời sau đa số cho là tác phẩm của Lí Thân.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 27/6/2013
Nguyên tác Trung văn
“SỪ HOÀ NHẬT ĐƯƠNG NGỌ” NHẤT THI
ĐÍCH TÁC GIẢ
“锄禾日当午”一诗的作者
Trong quyển
TRUNG QUỐC VỊ GIẢI
CHI MÊ
中国未解之谜
Chủ biên: Tôn Thiệu
Vũ 孙绍武
Hô Hoà Hạo Đặc: Viễn
phương xuất bản xã, 2009
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật