扶董兒
英雄成事不居功
來是無因去絕蹤
贏得後人神異說
小兒躍馬又騰空
阮輝濡
PHÙ
ĐỔNG NHI (1)
Anh hùng thành sự bất cư công
Lai thị vô nhân khứ tuyệt tung
Doanh đắc hậu nhân thần dị thuyết
Tiểu nhi dược mã hựu đằng không
NGUYỄN HUY NHU (2)
Dịch nghĩa
CẬU BÉ PHÙ ĐỔNG
Bậc anh hùng làm nên sự nghiệp, không cần phải ở lại để hưởng công trạng của mình
(Cậu bé Phù Đổng) khi đến
không biết vì sao mà khi đi cũng chẳng để lại dấu vết gì.
Được người đời sau truyền tụng
tôn làm Thần
Cậu bé đã phi ngựa và bay vút
lên không.
Dịch thơ
CẬU BÉ PHÙ ĐỔNG
Anh hùng nên việc kể chi công
Đi, đến đều không để dấu chân
Hậu thế tôn Thần truyền tụng mãi
Trẻ thơ cưỡi ngựa vút lên không.
Chú của người
dịch
(1)- Ở Đại Việt
sử kí toàn thư bản chữ Hán, quyển 1 tờ 3 a – b chép rằng:
Hùng Vương lục thế, Vũ Ninh bộ Phù Đổng
hương hữu phú gia ông sinh nhất nam, tam tuế dư ẩm thực phì đại, bất năng ngôn
tiếu. Thích quốc nội hữu cảnh, vương lệnh nhân cầu năng khước địch giả. Kì nhật
tiểu nhi hốt năng ngôn, cáo kì mẫu yêu thiên sứ lai, viết nguyện đắc nhất kiếm
nhất mã, quân vô ưu dã. Vương tứ chi kiếm mã. Tiểu nhi tức dược mã huy kiếm nhi
tiền, quan quân tùng hậu phá tặc vu Vũ Ninh sơn cước. Tặc tự đảo qua tương công, tử giả thậm chúng,
dư đảng la bái hô Thiên tướng, tức giai lai hàng. Tiểu nhi dược mã đằng không
nhi khứ. Vương mệnh khai sở cư viên trạch lập miếu thời tự yên. Hậu Lí Thái Tổ phong vi Xung Thiên Thần
Vương. Kì từ Thần tại Phù Đổng
hương, Kiến Sơ tự trắc.
雄王六世, 武寧部扶董鄉有富家翁生一男, 三歲餘飲食肥大, 不能言笑. 適國內有警, 王令人求能却敵者. 其日小而忽能言, 告其母邀天使來, 曰願得一劔一馬, 君無憂也. 王賜之劔馬. 小兒即躍馬揮劔而前, 官軍從後破賊于武寧山脚. 賊自倒戈相攻, 死者甚眾, 餘黨羅拜呼天將, 即皆來降. 小兒躍馬騰空而去. 王命開所居園宅立廟時祀焉. 後李太祖封為冲天神王. 其祠神在扶董鄉建初寺側.
Đời
Hùng Vương thứ 6, tại hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có một phú ông sinh được một
người con trai, đã hơn 3 tuổi ăn uống to béo nhưng không biết nói cười. Đương
lúc trong nước có tin nguy cấp,vua sai người đi tìm người có thể đánh lui quân
giặc. Ngày hôm đó, cậu bé bỗng nhiên cất tiếng, nói với mẹ cho mời thiên sứ
vào, rồi nói rằng: Xin cho một thanh gươm và một con ngựa, vua chớ có lo gì.
Vua ban cho gươm và ngựa. Cậu bé liền nhảy lên ngựa vung gươm tiến lên phía trước,
quan quân theo sau, đánh tan quân giặc dưới chân núi Vũ Ninh. Quân giặc tự trở
giáo đánh lẫn nhau, chết rất nhiều, bọn còn lại la liệt quỳ lạy hô là Thiên tướng,
rồi đều đến xin hàng. Cậu bé phi ngựa bay vút lên trời. Vua sai lập miếu nơi vườn
nhà cũ, quanh năm thờ tự. Về sau Lí Thái Tổ phong là Xung Thiên ThầnVương. (Đền
thờ cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng)
(Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998)
(2)- Nguyễn Huy
Nhu 阮輝濡 (1887 – 1962): còn gọi là Nghè Nhu, là một danh sĩ Nho học và nhà giáo
dục Việt Nam
đầu thế kỉ 20. Ông là người làng Vạn Lộc, tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, phủ
Hưng Nguyên (nay là phường Nghi Tân, thị xã Cửa Lò) tỉnh Nghệ An. Nguyên quán
ông ở xã Bột Thái, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá, tổ tiên dời vào Nghệ An.
Ông đỗ
Cử nhân khoa Kỉ Dậu 1909, sau đó được sung chức Giáo thụ phủ Quảng Ninh, Huấn đạo
hạng nhất. Năm 1916, ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn, dưới triều vua Khải Định
khi mới 30 tuổi.
Bia Văn
miếu Huế chép ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, đứng thứ 5 trong số 7
Tiến sĩ của khoa này. Về sau ông làm quan đến Hàn lâm viện tu soạn, Đốc học Quảng
Ninh.
Khi Viện
đại học Huế thành lập năm 1957, ông được mời làm giáo sư môn Hán văn.
Ông qua
đời năm 1962.
Ở trang
đầu trong nguyên tác ghi là:
Lư Phong Nguyễn Huy Nhu Bính Thìn Tam
giáp Tiến sĩ Lễ bộ tá lí.
山盧(*)峯阮輝濡丙辰三甲進士礼步佐理
(Chữ “Lư” này gồm bộ 山
bên trái và chữ 盧 bên phải)
Bài Phù Đổng nhi
là bài thứ 1 trong 11 bài Vịnh
sử 咏史 ở tập Bí viên thi thảo 賁園詩草 của Lư Phong
Nguyễn Huy Nhu.
Huỳnh Chương
Hưng
Quy Nhơn 1/5/2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật