CHẾ ĐỘ MIỆN QUAN
Miện 冕 là một loại mũ lễ dành cho đế vương, chư hầu, khanh đại
phu đội. Trong các loại mũ lễ, miện là loại quý trọng nhất, chuyên dùng trong
những buổi tế trọng đại. Đời Hạ đã có chế độ về loại mũ này, gọi là “thu” 收. Đời Thương theo đó, gọi là “hu” 冔 (1). Đời Chu có một dạo gọi là “tước biền” 爵弁, sau đổi gọi là “miện” 冕,
cũng còn gọi là “miện quan” 冕冠. Đời Hán dùng theo
tên gọi này. Hình chế của miện quan trước đời Chu ,
từ đời Hán đã thất truyền. Miện quan dùng trong tế tự đầu đời Hán là loại “trường
quan” 长冠 do Lưu Bang 刘邦 sáng chế ra, đến thời
Minh Đế nhà Đông Hán, để chỉnh đốn lại lễ chế, đã ra lệnh cho Hữu ti cùng các đại
sư Nho học tham cứu kinh điển xưa chế định lại chế độ miện quan. Từ đó trở đi, các đời nối tiếp nhau dùng cho
đến thời Minh Thanh.
Bộ phận
đỉnh của miện quan là một tấm ván, gọi là “diên” 延,
cũng còn gọi là “miện bản” 冕版. Miện bản đa phần
dài, trước tròn sau vuông, phía trước thấp hơn phía sau khoảng 1 thốn, có thế
nghiêng về phía trước, tượng trưng cho người đội khiêm tốn. Bề mặt của miện bản
đa phần được bọc một lớp vải mịn, mặt trên màu đen, đại biểu cho trời; mặt dưới
màu vải gai, đại biểu cho đất. Hai đầu của miện bản rủ xuống những xâu chuỗi ngọc,
gọi là “lưu” 旒. Dây dùng để xuyên các lưu là dùng loại dây ngũ sắc bện
lại mà thành, gọi là “tảo” 藻. Số lượng lưu nhiều
ít là một tiêu chí lớn để phân biệt thân phận: 12 lưu là tôn quý nhất chuyên
dùng cho đế vương; trở xuống có 9 lưu, 7 lưu, 5 lưu, 3 lưu, tuỳ theo đẳng cấp mà giảm dần. 1 lưu tức
chỉ có 1 xâu chuỗi ngọc. Màu của ngọc cũng được quy định, như thời Thương Chu
thông thường dùng 5 loại màu, tức trong mỗi một lưu có ngọc màu đỏ, xanh, vàng,
trắng, đen, sắp xếp theo thứ tự là đỏ, trắng, xanh, vàng, đen, cứ như thế vòng
trở lại. Đến thời Hán, thống nhất dùng một màu ngọc. Đời sau số lưu dùng không
câu nệ theo cổ, ngoài 3, 5, 7, 9, 12 lưu ra, lại thêm 8 lưu và 6 lưu, như thời
Đường quy định trang phục của quần thần: nhất phẩm dùng 9 lưu; nhị phẩm 8 lưu;
tam phẩm 7 lưu, tứ phẩm 6 lưu, ngũ phẩm 5 lưu. Từ lục phẩm trở xuống không có
lưu. Chất liệu của hạt châu cũng khác nhau, thời kì đầu là bạch ngọc, phỉ thuý,
san hô, về sau dùng các nguyên liệu như mã não, tử thạch anh chế thành. Cách
xuyên hạt châu cũng đại đồng tiểu dị, thông thường trên một dây tảo, thắt một
nút nhỏ, gọi là “tựu” 就, mỗi tựu xỏ 1 hạt. Hạt
châu và tựu gián cách nhau để tránh va vào nhau. Miện quan 12 lưu, mỗi lưu có
12 tựu, xỏ 12 hạt. Giữa 2 tựu cách nhau 1 thốn (2), dây tảo dài 12
thốn. Miện quan 9 lưu dùng 9 hạt, dây tảo dài 9 thốn, từ đó có thể suy ra các
miện quan khác. Ngọc càng nhiều, miện lưu rủ xuống càng dài. Lưu của Thiên tử
có thể dài đến vai. Ý nghĩa của miện lưu là:
- Làm
rõ thân phận
- Hạn chế tầm nhìn, để người đội miện quan mắt không
nhìn những gì tà vạy, tức không nhìn những gì không chính đáng. Thành ngữ “Thị
nhi bất kiến” 视而不见 từ đây mà ra.
(còn tiếp)
CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
(1)- Đời Thương gọi miện là “hu” 冔. Ở nguyên tác in nhầm là “tầm” 寻.
Trong Trung Quốc y kinh 中国衣经 do Mậu Lương Vân 缪良云
chủ biên có ghi:
Cứ truyền giá chủng miện quan tại Hạ đại tức
dĩ xuất hiện, đương thời xưng “thu”; Thương triều cải xưng “hu”; cập chí Chu
triều thuỷ xưng “miện quan”, tỉnh xưng vi “miện”.
据传这种冕冠在夏代即已出现, 当时称 “收”; 商朝改称 “冔”; 及至周朝始称 “冕冠”, 省称为 “冕”.
(Theo
truyền thuyết, loại miện quan này vào thời Hạ đã xuất hiện, lúc bấy giờ gọi là
“thu”; triều Thương đổi gọi là “hu”; đến triều Chu mới bắt đầu gọi là “miện
quan”, gọi tắt là “miện”).
(Thượng Hải văn
hoá xuất bản xã, 2000, trang 16)
Trong Khang Hi tự điển, mục chữ 冔 , trang 56 có ghi:
Đường vận 唐韻phiên thiết là HUỐNG VU 况于
Tập vận 集韻, Vận hội 韻會 phiên thiết là
HUNG VU 匈于
Đều có âm là 吁 (HU). Trong Ngọc thiên 玉篇 giải thích là
Phú dã, Ân chi miện dã
覆也,殷之冕也
(Dùng để đội, miện của nhà Ân)
(Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 2003)
(2)- Trượng 丈, xích 尺, thốn 寸 của các triều đại có
khác nhau.
- Thời Hán là:
1 dẫn = 10 trượng, 1 trượng
= 10 xích, 1 xích = 10 thốn, 1 thốn = 10 phân.
(1 xích = 27.7cm)
- Thời Đường, Ngũ đại là:
1 trượng = 10 xích, 1 xích =
10 thốn, 1 thốn = 10 phân
(tiểu xích: 1 xích = 31.1cm; đại xích: 1 xích = 36cm)
- Hiện đại là:
1 trượng
= 10 xích, 1 xích = 10 thốn, 1 thốn = 10 phân
(1 xích = 33.33cm)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 10/5/2013
Nguyên tác Trung văn
MIỆN QUAN CHI CHẾ
冕冠之制
Trong quyển
PHỤC SỨC
服饰
Biên soạn: Vân Trung Thiên 云中天
Bách Hoa Châu văn nghệ xuất bản xã, 2006
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật