DIỄN BIẾN QUAN XƯNG TỂ TƯỚNG
QUA CÁC TRIỀU ĐẠI
TẦN,
HÁN, TAM QUỐC
Sau khi Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 thống nhất Trung Quốc, định
ra quan chế trong cả nước, đồng thời thiết lập chức “Thừa tướng” 丞相 để nắm giữ muôn việc, tức Tể
tướng. Có Tả thừa tướng 左丞相 và Hữu thừa
tướng 右丞相.
Triều Tần còn thiết lập Ngự sử đại phu
御史大夫, tức Phó tể tướng, nắm giữ
việc duy trì trật tự bách quan, đồng thời giúp Tể tướng xử lí chính sự.
Thừa tướng, Ngự sử đại phu và Thái uý 太尉 (nắm giữ binh mã) hợp xưng là tam
công. Điều này đã đặt nền móng cho chế độ
Tể tướng của các triều đại sau này.
TRIỀU
HÁN
Tây
Hán
Triều
Hán theo chế độ triều Tần, sau khi lập quốc, thiết lập chức Thừa tướng, phụ
trách công việc của một Tể tướng. Sau 11 năm,
đổi gọi là Tướng quốc. Thời Lữ Hậu 吕后chấp
chính, lại đổi gọi là Thừa tướng, lập Tả thừa tướng, Hữu thừa tướng mỗi chức 1
người. Thời Văn Đế 文帝, khôi phục
lại chế độ cũ, chỉ lập 1 Thừa tướng. Thời Ai Đế 哀帝, đổi gọi là Đại tư đồ 大司徒. Thời Bình Đế 平帝,
Đại tư đồ (Vương Mãng 王莽) đổi gọi
là Tể hành 宰衡.
Triều Tây Hán còn thiết lập Ngự sử đại
phu làm Phó Tể tướng. Thời Thành Đế 成帝
đổi gọi là Đại tư không 大司空, đồng thời
đưa địa vị Đại tư không ngang hàng với Thừa tướng và Đại tư mã (Thái uý). Thời
Ai Đế có dạo khôi phục tên cũ, nhưng chẳng bao lâu lại đổi gọi là Đại tư không.
Đại tư đồ, Đại tư mã, Đại tư không triều
Tây Hán gọi chung là tam công, về danh nghĩa đều là chức Tể tướng. Nhưng, Đại
tư mã không thường được thiết lập, về cơ bản lấy Đại tư đồ là Chính tể tướng, Đại
tư không làm Phó tể tướng, cùng xử lí việc triều chính.
Đông
Hán
Đầu thời Đông Hán, Quang Vũ Đế 光武帝 tiếp thu bài học từ việc
Vương Mãng độc quyền nắm giữ quân sự dẫn đến việc soán ngôi, nên đã phân tán
quyền lực, lấy Đại tư mã, Đại tư đồ, Đại tư không cùng làm Tể tướng, “phân chức
trao việc”, mỗi vị nắm một bộ phận quyền lực.
- Đại tư mã nắm giữ
binh sự tứ phương kiêm quản tam khanh là Thái thường 太常, Quang Lộc 光禄,
Vệ uý 卫尉.
- Đại tư đồ nắm giữ dân sự kiêm quản tam khanh là Thái bộc 太仆, Đình uý 廷尉, Đại hồng lô大鸿胪
cùng chủ quan quận quốc địa phương.
- Đại tư không nắm giữ thuỷ lợi, kiến trúc kiêm quản tam
khanh là Chính tông 正宗, Đại tư
nông 大司农, Thiếu phủ 少府.
Những việc trọng đại do tam công thương nghị quyết định, sử
gọi là chế độ “Tam công đỉnh lập” 三公鼎立
(Tam công chia 3 chân vạc), có thể khiến tam công kiềm chế lẫn nhau, để phòng
ngừa độc chiếm đại quyền.
Về thứ vị của tam công, Đại tư mã đứng đầu, sử gọi là “Thượng
tư” 上司; kế tiếp là Đại tư đồ, cuối
cùng là Đại tư không. Về chức việc nắm giữ, Đại tư đồ nắm giữ dân chính, quản
lí bách quan, quyền lực lớn nhất, có thể xem là Chính tể tướng; Quyền lực của Đại
tư không là nhỏ nhất, có thể xem là Phó tướng. Riêng Đại tư mã vẫn nắm giữ binh
quyền là chính.
Đại tư mã triều Đông Hán về sau khôi phục lại theo chức
danh của triều Tây Hán gọi là Thái uý. Đại tư đồ đổi gọi là Tư đồ. Về sau khi Đổng
Trác 董卓曹操 chuyên quyền lại đổi gọi
là Tướng quốc, Thừa tướng. Đại tư không khi Tào Tháo chuyên quyền lại đổi gọi
là Ngự sử đại phu.
TAM QUỐC
Nguỵ
Thời kì đầu (Văn Đế 文帝,
Minh Đế 明帝), lấy tam công là Tư đồ, Thái uý, Tư không làm Tể tướng, trong
đó đứng đầu là Tư đồ, tổng quản quốc chính. Thời kì sau (Tề vương 齐王, Cao Quý Hương Công 高贵乡公, Nguyên Đế 元帝) do bởi chức quyền của Thượng
thư đài 尚书台 được mở rộng, nắm giữ quốc
chính, nên Thượng thư lệnh 尚书令,
Lục thượng thư sự 录尚书事 trên thực
tế trở thành Tể tướng. Tam công chuyển hoá thành chức hàm vinh dự. Trong thời
gian này, Tư Mã Ý 司马懿 từng lấy
chức hàm Thừa tướng để thực thi quyền Tể tướng.
Thục
Thời kì đầu lấy Thừa tướng là Tể tướng. Sau khi Chư Cát Lượng
诸葛亮 qua đời, lấy Đại tư mã, Đại
tướng quân làm Tể tướng, cũng lấy Thượng thư lệnh làm Tể tướng trong thực tế.
Ngô
Từ lúc lập quốc cho đến lúc diệt vong, về cơ bản đều lấy Thừa
tướng làm Tể tướng, có một dạo thiết lập Tả thừa tướng, Hữu thừa tướng.
Thời Tam quốc do bởi giữa 3 nước chiến tranh liên miên,
chính cục của nội bộ các nước cũng luôn biến động, quân sự trở thành việc lớn
hàng đầu, chức Tể tướng cũng thường lấy danh hàm Tướng quân, Đại tướng quân, Đại
tư mã, Lục thượng thư sự để hành sử tướng quyền, nhưng người đó không nhất định
phải dẫn binh đánh trận, mà chỉ là lập quyền uy mà thôi.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 05/01/2013
Dịch từ nguyên tác
Trung văn
LỊCH ĐẠI TỂ TƯỚNG
QUAN XƯNG ĐÍCH DIỄN BIẾN
历代宰相官称的演变
Trong quyển
TRUNG QUỐC LỊCH ĐẠI TỂ
TƯỚNG LỤC
中国历代宰相录
Chủ biên: Dương Kiếm
Vũ 杨剑宇
Thượng Hải văn hoá xuất
bản xã, 1999.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật