CHỦNG
LOẠI ÁN
Danh xưng của các loại án thường căn cứ vào công dụng khác
nhau mà định, như thực án 食案, thư án 书案, chiên án 毡案, ỷ án 欹案.
1-
THỰC ÁN 食案: dùng để bưng thức ăn, hình dạng
giống cái bàn 盘(khay)
bưng thức ăn trong các quán ăn thời cổ. Án và bàn khác nhau ở chỗ án có chân ngắn.
Nhan Sư Cổ 颜师古
chú rằng:
Vô túc viết bàn, hữu
túc viết án
无足曰盘,有足曰案
(Không
có chân là bàn, có chân là án)
Thực án đa phần đều nhỏ và nhẹ. Những
miêu tả về án trong các thư tịch rất nhiều.
Thuyết
văn viết: “Án, kỉ thuộc dã. Yên
thái tử viết, thái tử thường dữ Kinh Kha đẳng án nhi thực”.
“说文”曰:“案几属也.燕太子曰,太子尝与荆轲等案而食”
(“Thuyết
văn” có ghi: “Án thuộc loại kỉ. Thái tử
nước Yên nói rằng, thái tử từng với Kinh Kha cùng ngang án mà ăn”.)
(Nghệ văn loại tụ 艺文类聚 quyển 69)
“Sử
kí” viết: “Hán thất niên, Cao Tổ quá Triệu, Triệu vương Trương Ngao tự trì án
tiến thực, lễ thậm cung. Cao Tổ ki cứ mạ chi”.
史记曰:“汉七年,高祖过赵,赵王张敖自持案进食,礼甚恭.高祖箕踞骂之.
(“Sử kí” có ghi: “Năm thứ 7 đời Hán
Cao Tổ, Cao Tổ trên đường đi thảo phạt Trần Hi 陈豨
đã ghé qua nước Triệu. Triệu vương là Trương Ngao đích thân bưng án dâng cơm. Cao
Tổ ngạo mạn ngồi duỗi chân mắng ông ta)
(Nghệ văn loại tụ 艺文类聚 quyển
69)
“Sở
Hán Xuân Thu” viết: “Hạng Vương sử Vũ Thiệp thuế Hoài Âm Hầu,
Tín viết, thần sự Hạng Vương, vị bất
qua Trung lang, quan bất quá Chấp kích, nãi khứ Hạng quy Hán. Hán vương tứ thần
ngọc án chi thực, ngọc cụ chi kiếm. Thần bội bạn chi, nội quý vu tâm”.
“楚汉春秋”曰:“项王使武涉说淮阴侯,信曰,臣事项王,位不过中郎, 官不过执戟,乃去项归汉.汉王赐臣玉案之食,玉具之剑臣.背叛之,内愧于心.
(“Sở Hán Xuân Thu” có ghi: “Hạng Vương
sai Vũ Thiệp đi thuyết phục Hoài Âm Hầu. Hàn Tín nói rằng, tôi thờ Hạng Vương,
tước vị bất quá là Trung lang, quan chức bất quá là Chấp kích, nên bỏ Hạng về với
Hán. Hán Vương ban cho tôi thức ăn trên án ngọc, kiếm nạm ngọc. Nếu phản bội Hán
Vương, lòng tôi hổ thẹn)
(Nghệ văn loại tụ 艺文类聚 quyển 69)
“Liệt
sĩ truyện” viết: “Ngụy công tử phương thực, hữu cưu phi nhập kì án hạ, công tử
quái chi, thử hữu hà cấp, lai quy vô kị da. Sử nhân vu điện hạ thí chi, tả hữu
cố vọng, nhất diêu tại ốc thượng nhi phi.
“烈士传”曰:“魏公子方食,有鸠飞入其案下,公子怪之,此有何急,来归无忌耶.使人于殿下试之,左右顾望,一鹞在屋上而飞.
(“Liệt
sĩ truyện” có ghi: “Ngụy công tử đang dùng bữa, có con chim cưu bay vào dưới
án, công tử lấy làm lạ, có việc gì mà chim bay vội vào không kiêng sợ. Công tử
sai người dò thử dưới điện, nhìn bên phải bên trái, thấy có một con diều hâu từ
trên mái nhà bay đi)
(Nghệ văn loại tụ 艺文类聚 quyển 69)
“Đông
Quan Hán kỉ” tải: “Lương Hồng thích Ngô, y đại gia Cao Bá Thông vũ hạ, vị nhân
nhẫm thung. Thê vi cụ thực, bất cảm vu Hồng tiền ngưỡng thị, cử án tề mi”
“东观汉纪”载:“梁鸿适吴,依大家皋伯通庑下,为人赁舂.妻为具食, 不敢于鸿前仰视,举案齐眉”.
(“Đông
Quan Hán kỉ” có chép: “Lương Hồng sang nước Ngô, ở dưới chái nhà đại gia Cao Bá
Thông, giã gạo thuê. Người vợ chuẩn bị thức ăn, không dám nhìn thẳng Lương Hồng,
chỉ nâng mâm lên ngang tầm chân mày”)
(Nghệ văn loại tụ 艺文类聚 quyển 69)
Những câu trên đủ để chứng minh đặc điểm
gọn nhẹ tiện lợi của thực án. Tạ Tại Hàng 谢在杭đời
Minh trong Ngũ tạp trở 五杂俎 đã viết rằng:
Hán
Vương ban cho Hoài Âm Hầu 淮阴侯
thức ăn đựng trên án ngọc; Ngọc Nữ ban cho Thẩm Nghĩa 沈义
án vàng li ngọc; Thạch Quý Long 石季龙 dùng án ngọc để viết văn thư; thơ cổ có câu:
Hà dĩ báo chi
thanh ngọc án (1)
何以报之青玉案
(Muốn
tặng lại cho nàng chiếc án ngọc xanh)
Hán
Vũ Đế có tạp ngọc án, quý trọng như vậy,
nhất định không phải là vật to lớn. Hoàng hậu thời Hán cứ 5 ngày vào chầu Hoàng
thái hậu, đích thân dâng món ăn đựng trên án ngọc.
Từ
đó có thể thấy người xưa nâng mâm lên ngang mày là việc thường thấy.
2-
THƯ ÁN 书案: chỉ chiếc án dùng khi viết hoặc
đọc sách. Loại án này không chỉ mặt án bằng phẳng mà chân án cũng lớn, và có
hình vòng cung. Thư án khác với thực án chuyên dụng, nhìn chung thực án có 2 dạng:
dạng hình chữ nhật và dạng hình tròn. Loại hình chữ nhật có 4 chân, loại hình
tròn đa phần có 3 chân. Trên bề mặt thực án thường có đường gờ ở mép biên nhô
cao ngăn nước chảy xuống. Thực án tương đối thấp, tiện lợi trong việc di chuyển.
Thư án cao hơn thực án để tiện cho việc viết hoặc đọc sách.
3-
TẤU ÁN 奏案: so với thư án, tấu án lớn hơn
một chút. Đây là loại chuyên dành cho quan lại các cấp thăng đường xử lí chính
sự hoặc tiếp nhận tấu chương. Như trong Giang
Biểu truyện 江表传 có ghi:
Tào Công bình Kinh Châu, nhưng dục phạt Ngô,
Trương Chiêu đẳng giai khuyến nghinh Tào Công, duy Chu Du, Lỗ Túc gián cự chi,
Tôn Quyền bạt đao chước tiền tấu án viết: ‘Chư tướng phục hữu ngôn nghinh bắc
quân giả, dữ thử án đồng’.
曹公平荆州, 仍欲伐吴. 张昭等皆劝迎曹公, 唯周瑜, 鲁肃谏拒之. 孙权拔刀斫前奏案曰: ‘诸将复有言迎北军者, 与此案同’
(Tào
Công bình định Kinh Châu, lại còn muốn đánh Ngô. Bọn Trương Chiêu khuyên nên
nghinh đón Tào Công, duy chỉ có Chu Du, Lỗ Túc can nên chống lại. Tôn Quyền rút
đao chém tấu án trước mặt nói rằng: ‘Chư tướng ai mà còn nói nghinh đón bắc
quân thì cũng giống như chiếc án này’.)
Loại
án tương đối lớn này, có lúc cũng được dùng ở những việc khác. Lại căn cứ vào
việc dùng mà có những tên gọi khác nhau. Dùng khi viết hoặc đọc sách thì gọi là
“thư án”; án của phủ quan thì gọi là “tấu án”, quan lại cấp trên khi tuyên bố
chiếu thư xuống cho cấp dưới thì gọi là “chiếu án”. Cũng có lúc dùng trong việc
ăn uống.
“Đông Quan Hán kỉ” viết: “Canh Thủy Hàn phu
nhân, vưu thị tửu, mỗi thị ẩm, kiến Thường thị tấu sự, triếp nộ viết: ‘ Đế
phương đối ngã ẩm (2), chính dụng thử thời trì sự lai hồ?’ Khởi, để phá thư án.”
“东观汉纪”曰:“更始韩夫人,尤嗜酒,每侍饮,见常侍奏事,辄怒曰:
‘帝方对我饮,正用此时持事来乎? 起,抵破书案”.
(Trong
“Đông Quan Hán kỉ” có ghi rằng: “Canh Thủy Hàn phu nhân lại càng thích rượu, mỗi
khi hầu rượu, thấy bọn Thường thị đến tâu việc, liền giận nói rằng: ‘Chúa thượng
đang uống rượu cùng ta, lúc này lại đem việc đến?’ Liền đứng dậy, xé rách giấy
dán trên thư án.)
(Nghệ văn loại tụ 艺文类聚 quyển 69)
Ở
đây cho thấy rõ đem thư án làm thực án. Như vậy loại án tương đối lớn này trên
thực tế là một loại gia cụ có nhiều công dụng.
Thư
án đời Hán trên mặt án đa phần dán một lớp giấy, cho nên Hàn phu nhân mới có thể
“xé rách”. Trong Cách trí kính nguyên 格致镜原 dẫn lời ở Chích ngôn 摭言 rằng:
Cử nhân đa dĩ bạch
chỉ hồ án tử diện
举人多以白纸糊案子面.
(Cử nhân đa phần lấy giấy trắng
dán lên mặt án)
Trịnh
Xương Đồ 郑昌图
còn có câu thơ:
Tân hồ án tử bạch
như ngân
新糊案子白如银
(Chiếc án mới dán giấy trắng như
bạc)
4-
CHIÊN ÁN 毡案: là loại có trải tấm chăn dạ
trên bề mặt để ngồi, sử dụng như chiếc sàng. Trong Chu lễ - Chưởng thứ 周礼
- 掌次 có câu:
Vương Đại lữ Thượng đế,
tắc trương chiên án.
王大旅上帝,则张毡案
(Vương cử hành lễ tế Đại lữ để tế
Thượng đế, thì bày ra chiên án)
Trong Thông nhã 通雅 có chép lời chú của Khang Thành
康成 :
Dĩ chiên vi sàng
dã.
以毡为床也
(Lấy tấm chăn dạ làm sàng)
Trong Lục thư cố 六书故 giải thích là cái sạp, và nói
thêm:
Tại kim vi hương án chi án, dĩ chiên sức chi.
在今为香案之案,以毡饰之
(Nay là loại án ở hương án, dùng
nỉ dạ để trang sức thêm)
Trong Cách trí kính nguyên 格致镜原 có chép lời chú:
Tế Thiên vu Viên khâu trương
chiên án. Dĩ chiên vi án, vu ác trung dĩ hoàng vũ phú thượng để, hậu bản dã. Nhiễm vũ tượng phụng hoàng vũ sắc
vi chi.
祭天于圜丘张毡案.以毡为案,于幄中以皇羽覆上.邸,后板也. 染羽像凤皇羽色为之.
(Tế
Thiên ở Viên khâu bày chiên án. Dùng nỉ dạ làm án, nơi tế dùng lông chim hoàng
trang sức lên bức “để”, tức bức bình phong. Nhuộm lông chim giống màu lông phượng
hoàng để trang sức)
5- Ỷ ÁN 欹案: dựa theo hiện nay mà lí giải
đó là chiếc kỉ nhỏ để trên giường lò. Thông
nhã – Tạp dụng 通雅
- 杂用 ghi rằng:
Ỷ án, tà chi chi cụ
dã. Lục vân ngôn, Tào Công vật hữu ỷ án.
欹案,斜搘之具也.陆云言,曹公物有欹案.
(Ỷ án là vật dùng để chống tay.
Họ Lục nói rằng, Tào công có ỷ án)
Ỷ
án còn được gọi là “lãn giá” 懒架 hoặc “ỷ giá” 欹架. Trong Sự vật kỉ
nguyên bổ 事物纪原补 quyển 8 ở mục “lãn giá” có ghi:
Lục Pháp Ngôn Thiết vận viết:
Tào Công tác ỷ giá, ngọa thị thư. Kim lãn giá tức kì chế dã. Tắc thị thử khí khởi
tự Ngụy Vũ Đế dã.
陆法言切韵曰: 曹公作欹架, 卧视书. 今懒架即其制也. 则是此器起自魏武帝也.
(Lục
Pháp Ngôn trong bộ “Thiết vận” nói rằng: Tào Công làm ra ỷ giá để nằm coi sách. Lãn giá thời nay theo đó mà làm
ra. Như vậy vật dụng này bắt đầu có từ thời Ngụy Vũ Đế).
Lưu
Hiếu Xước 刘孝绰
nhà Lương thời Nam triều trong Chiêu Minh
thái tử tập tự 昭明太子集序 viết rằng:
Tuy nhất nhật nhị nhật (3), nhiếp lãm vạn cơ, do lâm thư hoảng nhi bất
hưu, đối ỷ án nhi vong đãi .
虽一日二日, 摄览万机, 犹临书幌而不休, 对欹案而忘怠.
(Một
ngày hai ngày cẩn thận xử lí công việc, đã đến thư phòng rồi mà vẫn không nghỉ
ngơi, đối mặt với ỷ án không biết đến lười nhác)
CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
(1)- Câu này trong bài Tứ sầu thi 四愁诗 của Trương Hành 张衡 thời Đông Hán.
(2)- Trong nguyên tác là “Đế
phương đối ngã” 帝方对我,
không có chữ “ẩm”. Nay theo http://ctext.org/dong-guan-han-ji/liu-xuan?
thêm vào chữ “ẩm”.
(3)- Trong nguyên tác là “Tuy nhất
viết nhị nhật” 虽一曰二日,
chữ “nhật” 日
in nhầm thành chữ “viết” 曰. Trong Thượng thư –
Cao Dao mô 尚书
- 皋陶谟 có câu:
Căng căng nghiệp
nghiệp, nhất nhật nhị nhật vạn cơ.
兢兢业业,一日二日万几.
(Nơm nớp lo sợ, một ngày hai
ngày cẩn thận xử lí công việc)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn
16/01/2013
Dịch từ nguyên tác Trung văn
ÁN ĐÍCH CHỦNG LOẠI
案的种类
Trong quyển
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIA CỤ
中国古代家具
Tác giả: Hồ Đức Sinh 胡德生
Thượng Hải văn hoá xuất bản xã,
1997.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật