HÔN
NHÂN
Thời
Xuân Thu, vua chư hầu cưới con gái của vua một nước khác làm vợ (đích phu
nhân), phía nữ sẽ cho điệt 姪 (con gái của anh hoặc em trai) và đễ 娣 (em gái) làm tuỳ giá 隨嫁. Ngoài ra còn tặng 2 cô gái của nước cùng một họ với phía nữ làm bồi giá 陪嫁, mỗi người cũng có điệt và đễ
đi theo, gọi chung là “dắng” 媵. Đích phu nhân là chính thê, dắng không phải là chính thê.
Địa vị của dắng và thiếp có khác nhau. Thiếp bị xem là tiện thiếp, người có
thân phận hèn kém, còn thân phận của dắng tương đối cao quý. Thời Chiến quốc
không còn chế độ “dắng”.
Thời
cổ, con gái xuất giá gọi là “quy” 歸. Trong Thuyết văn 說文 có nói:
Quy, nữ giá dã
歸, 女嫁也
(Quy là con gái lấy chồng)
Bài
Đào yêu 桃夭 ở Chu Nam 周南 trong Thi kinh 詩 經có ghi:
Chi tử vu quy
Nghi kì thất gia
之子于歸
宜其室家
(Nàng ấy đi lấy chồng
Thì ắt thuận hoà êm ấm cảnh gia
đình)
(Theo Tạ Quang Phát: Kinh Thi, tập 1, trang 59
Nxb Văn học, Hà Nội, 1991)
Con
gái xuất giá xem nhà chồng là nhà mình. Trong Bạch Hổ thông 白虎通 có ghi:
Giá giả, gia dã
嫁者, 家也
(Giá là gia)
Có thể thấy, bản thân chữ “giá” 嫁 mang ý nghĩa là “hữu gia” 有家 (có nhà). Trong Bạch Hổ thông cũng có ghi:
Thú giả, thủ dã
娶者, 取也
(Thú là thủ)
Thuyết văn cũng nói:
Thú, thủ phụ dã
娶, 取婦也
(Thú là lấy vợ)
Trong
Chu Dịch 周易 và Thi kinh 詩經 đều viết là chữ 取 (thủ), điều này biểu thị con
trai đưa con gái nhà khác về nhà mình. Từ 2 chữ “giá” và “thú” có thể chứng
minh được phong tục nam tôn nữ ti.
“Giá”
đối với nữ mà nói là bị động, thời cổ chỉ nói “giá nữ” 嫁女 hoặc “giá muội” 嫁妹, không nói “giá phu” 嫁夫. Có thể thấy quyền gả con gái nằm
trong tay của cha và anh. “Thú” đối với nam mà nói là chủ động, cho nên thời cổ
thường nói “thú thê” 娶妻, “thú phụ” 娶婦 (phụ chính là thê).
Trong
Kinh Thi có 2 lần ca vịnh:
Thú thê như chi
hà?
Phỉ mưu bất đắc (1)
娶妻如之何?
匪謀不得
(Cưới vợ thì phải như thế nào?
Không có người mai mối thì không
được vợ)
Vai
trò của người làm mai trong hôn nhân thời cổ rất lớn, số mệnh của biết bao nam
nữ thanh niên đều nằm trong tay người làm mai.
Theo
những ghi chép, hôn nhân thời cổ phải trải qua 6 thủ tục, gọi là “lục lễ” 六禮.
-
Thứ nhất là “nạp thái” 納采, nhà trai tặng cho nhà gái một lễ vật nhỏ (1 con nhạn), biểu
thị ý nghĩa cầu hôn.
-
Thứ hai là “vấn danh” 問名, nhà trai hỏi rõ họ tên nhà gái để về bói xem cát hung.
-
Thứ ba là “nạp cát” 納吉, sau khi tại Thái miếu bói được điềm tốt, nhà trai sẽ đến
nhà gái báo hỉ. Khi làm lễ “vấn danh” “nạp cát” đương nhiên cũng phải có lễ vật.
-
Thứ tư là “nạp trưng” 納徵, lễ này đồng nghĩa với việc tuyên bố đính hôn, cho nên sính
lễ tương đối long trọng.
-
Thứ năm là “thỉnh kì” 請期, tức chọn ngày tốt để hoàn hôn, tức hướng đến nhà gái trưng
cầu sự đồng ý.
-
Thứ sáu là “thân nghinh” 親迎, tức rước dâu.
Trong
6 lễ đó, “nạp trưng” và “thân nghinh” là quan trọng nhất. Bài Đại minh 大明 ở
Đại nhã 大雅 trong Thi kinh 詩 經 có ghi:
Văn định quyết tường
Thân nghinh ư Vị
文定厥祥
親迎於渭
(Mới làm lễ nạp tệ để thành cuộc
hôn nhân tốt lành
Rồi đến rước nàng ở sông Vị)
(Theo Tạ Quang Phát: Kinh Thi, tập , trang 1351
Nxb Văn học, Hà Nội, 1992)
Thuyết
xưa cho rằng Chu Văn Vương 周文王 sau khi bói được điềm tốt nạp trưng đính hôn, đã rước Thái
Tự 太姒
ở bờ sông Vị. Đời
sau dùng “Văn định” 文定 làm từ thay cho đính hôn.
Trong
Lễ kí – Hôn nghĩa 禮記 - 昏義 có nói đến việc sau khi “thân nghinh”, chú rể và cô dâu sẽ
Cộng lao nhi thực,
hợp cẩn nhi ấn (2)
共牢而食, 合巹而酳
(Vợ chồng cùng nhau ăn cơm, cùng
nhau uống rượu )
Đời
sau vợ chồng thành hôn gọi là “hợp cẩn” 合巹 chính do đây mà ra.
Lục
lễ nói ở trên đương nhiên là dành cho quý tộc sĩ đại phu, thứ dân đối với lục lễ
thường có sự tinh giản.
CHÚ CỦA NGUYÊN TÁC
(1)- Xem Tề phong – Nam sơn 齊風
- 南山; Bân phong – Phạt kha 豳風
- 伐柯. Ở bài sau không có chữ “chi” 之.
(2)- Lấy trái bầu chẻ ra làm 2 gọi
là “cẩn” 巹,
chú rể cô dâu mỗi người cầm một nửa mà uống (ấn 酳: uống rượu tráng miệng sau khi
ăn), gọi đó là “hợp cẩn”. Đời sau hợp cẩn biến thành “giao bôi” 交杯, chú rể cô dâu giao bôi đối ẩm.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy
Nhơn 8/12/2012
Dịch từ nguyên tác Trung văn
Trong quyển
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 3)
Chủ biên: Vương Lực 王力
Trung Hoa thư cục 1998.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật