生查子
金鞍美少年, 去跃青骢马 1. 牵系玉楼人 2, 绣被春寒夜. 消息未归来, 寒食梨花谢 3. 无处说相思, 背面秋千下 4.
(晏几道)
SINH TRA TỬ
Kim
an mĩ thiếu niên, khứ dược thanh thông mã 1. Khiên hệ ngọc lâu nhân 2,
tú bị xuân hàn dạ.
Tiêu
tức vị quy lai, Hàn thực lê hoa tạ 3. Vô xứ thuyết tương tư, bối diện
thu thiên hạ 4.
(Yến Cơ Đạo)
Chú thích
1-
THANH THÔNG MÃ 青骢马: ngựa mà
lông có 2 màu xanh trắng xen nhau. Ở đây chỉ tuấn mã.
2-
KHIÊN HỆ 牵系: bận tâm.
NGỌC LÂU NHÂN 玉楼人:
ở đây chỉ ý trung nhân.
3-
HÀN THỰC 寒食: tên một tiết trước tiết
Thanh Minh 1 ngày.
4-
Hai câu “Vô xứ …” : hoá dùng 2 câu trong bài Vô đề 无题 của Lí Thương Ẩn 李商隐:
Thập ngũ khấp xuân phong
Bối diện thu thiên hạ
十五泣春风
背面秋千下
(Mười lăm tuổi khóc
trong gió xuân
Dưới cây đu)
Nhưng
Lí Thương Ẩn nói về thiếu nữ thương xuân, còn ở đây miêu tả người vợ nhớ chồng.
Dịch ý
SINH TRA TỬ
Chàng trai trẻ anh tú tay vịn chiếc
yên vàng, nhảy lên lưng con tuấn mã, tư thế uy vũ biết bao. Chàng trai đã ra
đi, nhưng người đẹp nơi lầu ngọc lúc nào cũng mong nhớ đến chàng. Đêm về, nàng
chỉ một mình, đối diện với chiếc đèn lẻ loi, tấm chăn thêu mỏng không ngăn được
cái giá lạnh lúc đêm xuân.Tiết Hàn thực qua đi, hoa lê nở đã héo tàn. Chàng trai
ra đi biệt vô âm tín. Nàng với nỗi nhớ biệt li, không biết thốt cùng ai, chỉ biết
đứng dưới với chiếc đu mà trước đây hai người cùng đùa vui, âm thầm rơi lệ.
Dịch theo điệu từ
SINH TRA TỬ
Chàng trai vịn yên
vàng
Nhảy lên lưng tuấn mã
Lầu ngọc người đẹp
mong
Đêm xuân chăn lạnh
giá
Tin tức vẫn chưa về
Hoa lê giờ tàn tạ
Nỗi nhớ tỏ cùng ai
Giọt buồn lăn trên má
Điểm bình
Bài từ này viết về nỗi nhớ của thiếu
phụ chốn phòng khuê, do 4 bức hoạ hợp thành.
- Bức hoạ thứ nhất, chàng trai nhảy
lên lưng ngựa ra roi, dáng vẻ anh tuấn cử chỉ khoáng đạt. Đây là hình ảnh lúc
chàng trai ra đi đã định hình trong đầu khuê nữ.
- Bức hoạ thứ hai, đêm xuân lạnh, người
đẹp trong lầu chỉ một mình đối mặt với chiếc đèn lẻ loi, tình vương vấn, trằn
trọc không ngủ được.
- Bức hoạ thứ ba, một mình chốn phòng
khuê trông ngóng, chỉ thấy hoa nở rồi tàn, bao lần thất vọng.
- Bức hoạ thứ tư đặc sắc nhất, dưới
chiếc đu, người đẹp một mình đứng đó, như ngây như dại, mặt đất rụng đầy hoa
lê. Không thể thốt nên lời.
CHÚ
THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
YẾN
CƠ ĐẠO 晏几道 (1030? – 1106?): tự Thúc
Nguyên 叔原, hiệu Tiểu Sơn 小山, người Lâm Xuyên 临川 (nay là Phủ Châu 抚州 Giang Tây 江西), con của Yến Thù 晏殊, từng giữ các chức như Hứa Điền trấn giám phủ Dĩnh
Xương 颖昌, Thôi quan phủ Khai Phong 开封. Một đời sĩ đồ thất ý, về
già gia đạo sa sút. Ông giỏi về từ, từ phong của ông uyển chuyển, đa phần là những
tác phẩm nhớ về những niềm vui ngày trước.
Yến Cơ Đạo là một trong những đại biểu của phái từ Uyển ước. Tác phẩm có
Tiểu Sơn từ 小山词
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 30/11/2012
Dịch từ nguyên tác
Trung văn
SINH TRA TỬ
生查子
Trong quyển
TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ
TỪ ĐIỂN
宋词三百首辞
Biên soạn: Lâm Thân
Thanh 林申清
Hán ngữ đại từ điển
xuất bản xã, 1999.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật