KHÁI
QUÁT LỊCH SỬ TÂY HẠ
Đầu thế kỉ thứ
11, khu vực tây bắc Trung Quốc xuất hiện một vương triều phong kiến có ảnh hưởng
quan trọng, đó là vương triều Tây Hạ 西夏, do bởi ở phía
tây của triều Tống nên sử gọi là Tây Hạ. Tây Hạ trước sau có tất cả 10 vị hoàng
đế, trị nước được 190 năm. Thời kì đầu tồn tại song song với triều Bắc Tống và
triều Liêu; thời kì sau chia thế chân vạc với triều Nam Tống và triều Kim, hình
thành cục diện “tam quốc” mới ở Trung Quốc. Lân cận còn có chính quyền Hồi Hột 回鹘, Thổ Phồn 吐蕃, khiến cho mối
quan hệ giữa các vương triều càng thêm phức tạp, tế nhị. Thủ đô của Tây Hạ là
phủ Hưng Khánh 兴庆 (về sau đổi tên là phủ Trung Hưng 中兴, tức nay là thành phố Ngân Xuyên 银川 khu tự trị dân tộc
Hồi Ninh Hạ), dân tộc chủ thể là Đảng Hạng党项 thuộc tộc Khương 羌.
1- TỘC ĐẢNG HẠNG
DI CƯ
Tộc Đảng Hạng có
lịch sử lâu đời, là một nhánh của Tây Khương 西羌 thời Hán, “sau thời
Nguỵ Tấn, Tây Khương suy yếu, có lúc thần phục Trung Quốc, có lúc lấn chiếm rừng
núi. Từ sau khi họ Chu 周 diệt Đãng Xương 宕昌, Đặng Chí 邓至, Đảng Hạng bắt đầu
hùng mạnh trở lại. Giới tuyến phía đông đến Tùng Châu 松州, phía tây tiếp
giáp với Diệp Hộ 叶护, phía nam sống chung với tộc Khương Thung
Tang 舂桑, Mê Tang 迷桑, phía bắc nối liền
với Thổ Cốc Hồn 吐谷浑, ở vào khu vực thung lũng trải dài hơn 3 ngàn
dặm” (1). Thời kì đầu, tộc Đảng Hạnh chủ yếu phân bố tại thảo nguyên
rộng lớn phía đông nam tỉnh Thanh Hải và phía tây bắc tỉnh Tứ Xuyên hiện nay.
Lúc bấy giờ tộc Đảng Hạng đã có rất nhiều bộ lạc, mỗi bộ lạc là một họ, trong
đó bộ lạc Thác Bạt 拓跋 là mạnh nhất, thời
đó tộc Đảng Hạng hãy còn ở vào thời kì cuối của xã hội nguyên thuỷ. Đầu thời Đường,
thủ lĩnh bộ lạc Thác Bạt của tộc Đảng Hạng là Thác Bạt Xích Từ 拓跋赤辞 quy thuận nhà Đường và được ban cho họ Lí 李. Về sau, vương triều Thổ Phồn ở cao nguyên Tây Tạng hưng thịnh
lên, không ngừng mở rộng thế lực. Tộc Đảng Hạng chịu sức ép dưới thế lực hùng mạnh
của Thổ Phồn không thể không thỉnh cầu nhà Đường được dời vào sâu bên trong, từ
đó đã mở màn cho cuộc đại thiên di của dân tộc Đảng Hạng. Từ thời trung Đường
trở về sau, đại bộ phận người Đảng Hạng đã dần chuyển đến khu vực phía đông tỉnh
Cam Túc, Ninh Hạ và tây bắc tỉnh Thiểm Tây hiện nay, tại vùng đất mới này người
Đảng Hạng đã sinh sôi không ngừng. Năm Trung Hoà 中和 thứ nhất nhà Đường
(năm 881), thủ lĩnh tộc Đảng Hạng Thác Bạt Tư Cung 拓跋思恭 được phong làm Định
Nạn Quân Tiết độ sứ 定难军节度使, quản lĩnh 5
châu, trị sở tại Hạ Châu 夏州 (nay thuộc huyện
Tĩnh Biên 靖边 tỉnh Thiểm Tây), 4 châu còn lại là: Ngân Châu
银州 (nay thuộc huyện Mễ Chi 米脂 tỉnh Thiểm Tây),
Tuy Châu 绥州 (nay thuộc huyện Tuy Đức 绥德 tỉnh Thiểm Tây), Hựu Châu 宥州 (nay thuộc huyện
Tĩnh Biên 靖边 tỉnh Thiểm Tây), Tĩnh Châu 静州 (nay thuộc huyện Mễ Chi 米脂 tỉnh Thiểm Tây), sự thực đã bắt đầu việc cát cứ địa phương. Thời Ngũ
đại, chính quyền Đảng Hạng Hạ Châu trước sau dựa vào các vương triều ở trung
nguyên như Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, đồng thời trong các cuộc đấu tranh đã
liên kết hoặc phân hoá lực lượng với các phiên trấn lân cận, thế lực không ngừng
lớn mạnh (2).
Đầu thời Tống, thủ
lĩnh tộc Đảng Hạng quy thuận nhà Tống được ban cho họ Triệu 赵. Về sau, thủ lĩnh tộc Đảng Hạng Lí Kế Thiên 李继迁 (Triệu Bảo Cát 赵保吉) vì phản đối việc
nhà Tống trực tiếp quản 5 châu và đã biến thân thuộc của thủ lĩnh tộc Đảng Hạng
thành con tin, nên đã đào thoát sang Cân Trạch 斤泽 (nay thuộc Y Khắc
Chiêu Minh 伊克昭盟 khu tự trị Nội Mông), công khai chống lại nhà
Tống.Tự biết vây cánh của mình chưa đủ, Lí Kế Thiên dựa vào nước Liêu, được
phong làm Hạ quốc vương, trải qua 15 năm giằng co, cuối cùng trở thành mối hoạ
lớn cho nhà Tống, và năm Chí Đạo 至道 thứ 3 nhà Tống
(năm 997), ép nhà Tống phong cho ông làm Định Nạn Quân Tiết độ sứ 定难军节度使, vẫn quản 5 châu. Năm Hàm Bình 咸平 thứ 5 nhà Tống
(năm 1002), Lí Kế Thiên lại công chiếm Linh Châu 灵州 (nay là tây nam
huyện Linh Vũ 灵武 khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ). Năm sau đổi
Linh Châu thành phủ Tây Bình 西平, nơi đây trở
thành trung tâm thống trị của chính quyền mới tộc Đảng Hạng. Sau khi Lí Kế
Thiên mất, con là Lí Đức Minh 李德明 kế thừa vương vị,
về đại thể đã giao hảo qua lại với nhà Tống. Nhà Tống mỗi năm ban cho một số lớn
bạc, lụa, trà, và còn mở thị trường phát triển mậu dịch ở Bảo An Quân 保安军 (nay thuộc huyện Chí Đan 志丹 tỉnh Thiểm Tây).
Năm Thiên Hi 天禧 thứ 4 nhà Tống (năm 1020), Lí Đức Minh dời
trung tâm thống trị đến trấn Hoài Viễn 怀远 ở chân núi Hạ Lan 贺兰, đổi tên là Hưng Châu 兴州 (nay là thành phố
Ngân Xuyên 银川 khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ), và dần phát
triển nơi đây thành một đại đô hội của khu vực tây bắc, thế lực ngày càng lớn mạnh.
Năm Thiên Thánh 天圣 thứ 6 nhà Tống (năm 1028), Lí Đức Minh sai
con là Nguyên Hạo 元昊 dẫn binh công chiếm Cam Châu 甘州 (nay là Trương Dịch 张掖 tỉnh Cam Túc),
Lương Châu 凉州 (nay là Vũ Uy 武威 tỉnh Cam Túc). Chẳng
bao lâu, Qua Châu 瓜州 (nay là huyện An Tây 安西 tỉnh Cam Túc), Sa
Châu 沙州 (nay là Đôn Hoàng 敦煌 tỉnh Cam Túc)
cũng đến đầu hàng. Như vậy, chính quyền Đảng Hạng của Lí Đức Minh lại chiếm
lĩnh trọn hành lang Hà Tây 河西, đặt nền móng kiến
lập cơ sở cho bản đồ Tây Hạ.
(còn tiếp)
CHÚ CỦA NGUYÊN TÁC
(1)- Cựu Đường thư 旧唐书 quyển 198 Đảng Hạng Khương truyện 党项羌传, Trung Hoa thư cục
hiệu điểm bản (đoạn sau giống với chính sử). Bắc sử 北史 quyển 96 Đảng Hạng truyện
党项传; Tuỳ thư 隋书 quyển 83 Đảng Hạng truyện
党项传.
(2)- Cựu Ngũ đại sử 旧五代史 quyển 138 Đảng Hạng truyện 党项传. Tống sử 宋史 quyển 485, 486 Hạ quốc truyện 夏国传 (thượng, hạ).
Liêu sử 辽史 quyển 115
Tây hạ ngoại kí 西夏外记. Kim sử 金史 quyển 134 Tây Hạ truyện 西夏传. (Thanh) Ngô Quảng Thành 吴广成 Tây Hạ thư sự 西夏书事, Thanh Đạo Quang
ngũ niên (1835)
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 5/11/2012
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật