Dịch thuật: Người đến tuổi đinh là bao nhiêu?


NGƯỜI ĐẾN TUỔI ĐINH LÀ BAO NHIÊU?
BÀN VỀ CHỮ  “ĐINH”

          Nói đến chữ Đinh mọi người dễ dàng liên tưởng đến họ Đinh. Người mang họ Đinh có không ít, hơn nữa Đinh là một họ có từ xưa, thời Chu, sau khi Tề công tử Lữ Cấp 吕伋 mất có thuỵ hiệu là Đinh Công 丁公 đã có họ Đinh. Đinh không chỉ là họ mà còn là tên của 6 vị đế vương nhà Thương, như Tổ Đinh 祖丁, Vũ Đinh 武丁, Canh Đinh 庚丁 v.v…. Nhưng bất luận là họ hay tên đều không phải là nghĩa gốc của chữ Đinh. Nghĩa gốc của ĐinhĐinh thực 丁实 (1), nghĩa là rắn chắc, vạm vỡ. Cho nên người trưởng thành gọi là Đinh tráng 丁壮, người đang lúc đinh tráng cũng còn được gọi là Đinh niên 丁年. Trong Lý Lăng đáp Tô Vũ thư 李陵答苏武书  thời Hán có câu:
Đinh niên phụng sứ, hạo thủ nhi quy.
丁年奉使, 皓首而归
(Lúc trẻ vâng mệnh đi sứ, đến lúc đầu bạc mới được trở về)
Nói về Tô Vũ 苏武 lúc còn trẻ đi sứ Hung Nô, đến khi đầu bạc mới từ Bắc Hải  北海 trở về.Ý nghĩa của Đinh niênĐinh tráng ở đây tương cận, nhưng nếu  tìm hiểu tỉ mỉ, một người đến bao nhiêu tuổi là đinh niên? Trong lịch sử có quy định thống nhất không? Xin thưa là có. Thời cổ 40 tuổi là đinh (2), thời Tuỳ 21 tuổi là đinh, thời Đường vào những năm Thiên Bảo 天宝 quy định là 23 tuổi. Trong Nhật tri lục 日知录 quyển 32 có nói rất rõ:
          Đường Vũ Đức (Cao Tổ) lục niên chế định, nhân thuỷ sinh vi Hoàng, tứ tuế vi Tiểu, thập lục tuế vi Trung, nhị thập nhất tuế vi Đinh, lục thập vi Lão.
          唐武德 (高祖) 六年制定, 人始生为黄, 四岁为小, 十六岁为中, 二十一岁为丁, 六十为老
          (Năm Vũ Đức thứ 6 (Đường Cao Tổ) quy định, người mới sinh là Hoàng, 4 tuổi là Tiểu, 16 tuổi là Trung, 21 tuổi là Đinh, 60 tuổi là Lão)
          Thiên Bảo quy định, thập bát dĩ thượng vi Trung nam, nhị thập tam vi Đinh.
天宝规定十八以上为中男, 二十三为丁
(Niên hiệu Thiên Bảo quy định lại, 18 tuổi trở lên là Trung nam, 23 tuổi là Đinh)
          Quy định tiền hậu bất nhất này e rằng có liên quan đến việc lao dịch lúc bấy giờ. Đỗ Phủ 杜甫 trong bài Tân Phong chiết tý ông 新丰折臂翁  có viết:
Hộ hữu tam đinh điểm nhất đinh.
户有三丁点一丁
(Nhà có ba con trai bị bắt đi hết một)
Và trong bài Tân An lại 新安吏
Huyện tiểu cánh vô đinh.
县小更无丁
(Huyện nhỏ càng không có con trai).
          Việc bắt lính đại quy mô lúc bấy giờ nếu như không hạn định số tuổi chắc chắn là không được. Đây cũng là nguyên nhân việc hạn định số tuổi thường biến động. Về từ Đinh tráng 丁壮, trong Tự hỗ nghĩa phủ hợp án 字诂义府合按 của Hoàng Sinh 黄生 và Hoàng Vĩnh Cát 黄永吉 cho rằng Đinh Đương (Đang) đồng âm, Đinh tức Đương, người đương lúc Đinh tráng chính là Đương tráng (3), luận giải này là xác đáng. Từ Đinh tráng có thể liên tưởng đến Đinh ưu 丁忧. Đinh ưu 丁忧 chính là Đương ưu 当忧, lúc có tang cha mẹ. Chữ Đinh ở đây cũng được giải thích là Đương.
          ĐinhĐinh thực, Đinh tráng về sau phái sinh nghĩa chỉ người chuyên phục vụ một công việc nào đó, như Đinh trong Viên đinh (园丁 – người làm vườn). Có người cho rằng, nghĩa này xuất hiện tương đối muộn, khoảng thời Bắc Nguỵ, Tuỳ, Đường. Lúc bấy giờ còn có các tên gọi như Sơn đinh 山丁, Hà đinh 河丁, Huề đinh 畦丁… Về sau lại có Huyện đinh 县丁, Hương đinh 乡丁, Bảo đinh 保丁. Cho nên xuất phát từ thời kỳ lịch sử mà xem xét vấn đề, từ Bào đinh 庖丁 trong câu Bào đinh giải ngưu 庖丁解牛 Trang Tử - Dưỡng sinh chủ 庄子 - 养生主) thời Tiên Tần, không thể giải thích là Trù công (厨工 – đầu bếp) hoặc Trù sư (厨师 – đầu bếp), mà nên giải thích Đinh trong Bào đinh là tên người, bởi vì chữ Đinh lúc bấy giờ vẫn chưa có khái niệm chỉ người chuyên một công việc nào đó. Trong giáo trình Ngữ văn bậc trung học đã chú giải chữ Đinh trong Bào Đinh là tên người, chú giải này là chính xác.
          Với thành ngữ Mục bất thức Đinh 目不识丁 xưa nay đã làm nhiều người nhọc công. Tại sao chữ mà mắt không nhận biết lại là chữ Đinh mà không phải là chữ nào khác. Khổng Bình Trọng 孔平仲 đời Tống trong Tục Thế thuyết 续世说 đã nói rằng, chữ Đinh vốn là chữ bị viết nhầm (4). Đúng ra là nói Mục bất thức cá 目不识个, tức một chữ cũng không biết. Có thuyết cho rằng chữ Đinh trong Giáp cốt văn vốn có nghĩa là con ngươi của mắt, con người không nhìn thấy được con ngươi của mình, đã không nhìn thấy có nghĩa là giống như người mù, đương nhiên là một chữ cũng không biết.
          Và trong tục ngữ có câu:
Đinh thị đinh, mão thị mão.
丁是丁, 卯是卯
(Đinh là đinh, mão là mão )
Với tục ngữ này cũng có 2 cách giải thích:
         - Đinh, Mão là từ biểu thị thời gian, Đinh là một trong 10 Thiên can, Mão là 1 trong 12 Địa chi.
          - Đinh, Mão tức là (đinh) và (mão), đinh là cái mộng dương còn mão là cái mộng âm.
          Cho dù là 2 cách giải thích, tục ngữ này vẫn biểu thị ý nghĩa làm việc cẩn thận, không chút cẩu thả.

CHÚ CỦA NGUYÊN TÁC
(1)- Thuyết văn giải tự 说文解字
Hạ thời vạn vật giai đinh thực
夏时万物皆丁实
(Mùa Hạ muôn vật đều chắc khoẻ)
                                                         (Trung Hoa thư cục ảnh ấn)
(2)- Minh. Điền Nghệ Hành . 田艺蘅: Lưu thanh nhật trát 留青日札, quyển 65, trang 271. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã.
(3)- Trong Tự hỗ nghĩa phủ hợp án 字诂义府合按, mục Đinh tráng 丁壮 có ghi:
          “Hán thư – Cao Đế kỷ”  ‘Đinh tráng nhược quân lữ’. Cổ Đinh, Đương đồng âm, đinh tráng ngôn kỳ niên chính đương tráng thời dã. Hậu ngữ tỉnh, toại đơn hô vi Đinh, cố dân niên nhị thập thành đinh….
          “汉书 - 高帝纪” ‘丁壮若军旅’. 古丁, 当同音, 丁壮言其年正当壮时也. 后语省,遂单呼为丁, 故民年二十成丁 …..
          (Trong “Hán thư – Cao Đế kỷ” có câu ‘Đinh tráng nhược quân lữ’ (Trai tráng khổ bởi việc quân binh) (chữ Nhược ở câu này là chữ Khổ - , có lẽ in nhầm – ND). Thời xưa chữ Đinh và chữ Đương âm đọc giống nhau, đinh tráng ý nói đang lúc tráng niên. Lược bỏ chữ sau chỉ gọi là Đinh, cho nên người dân 20 tuổi là thành đinh…)
                                                                                         (Trung Hoa thư cục)
(4)- Trong Tục Thế thuyết 续世说 của Khổng Bình Trọng 孔平仲 đời Tống có ghi
          ‘Nhất Đinh’ tự ưng tác ‘nhất cá’ tự, nhân triện văn ‘Đinh’ dữ ‘Cá’ tương tự, ngộ tác ‘cá’ nhĩ.
一丁字应作一个, 因篆文相似, 误作个耳.
          ( ‘Nhất đinh’ phải viết là ‘nhất cá’, do ở chữ triện ‘Đinh’ và ‘Cá’ viết giống nhau, nên viết nhầm chữ ‘Đinh’.  (Trong nguyên tác in là:  ngộ tác ‘cá’ nhĩ, ở đây phải là: ngộ tác ‘Đinh’ nhĩ – ND) )
          Có thể xem thêm ở Lưỡng ban thu vũ am tuỳ bút 两般秋雨盦随笔, quyển 7, trang 396. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã.
          Trong Dung Trai tuỳ bút 容斋随) của Hồng Mại 洪迈 đời Tống cũng có ghi
          Kim nhân đa dụng bất thức nhất đinh tự, vị tổ Đường thư. Dĩ xuất xứ khảo chi, nãi ‘Cá’ tự, phi ‘Đinh’ tự, cái ‘Cá’ dữ ‘Đinh’ tương loại.
          今人多用不识一丁字, 谓祖唐书. 以出处考之, , , 字与字相类.
          (Ngày nay người ta đa phần dùng không biết chữ Đinh, bảo là theo Đường thư. Từ xuất xứ mà khảo sát, là chữ ‘Cá’ không phải chữ ‘Đinh’. Do bởi ‘Cá’ và ‘Đinh’ tương tự.)
          Xem Bút ký tiểu thuyết đại quan 笔记小说大观, quyển 6. Quảng Lăng cổ tịch xuất bản xã.

                                                                  Huỳnh Chương Hưng
                                                                   Quy Nhơn 5/10/2012

Dịch từ nguyên tác Trung văn
NHÂN ĐÁO ĐINH NIÊN THỊ KỶ TUẾ
ĐÀM  “ĐINH”
人到丁年是几岁
  “
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã, 1998.

Previous Post Next Post