ĐƠN VỊ HOÁ TỆ THỜI CỔ TRUNG QUỐC
Tần Thuỷ
Hoàng 秦始皇sau khi thống nhất Trung Quốc, cũng đã thống nhất hoá
tệ. Thuỷ Hoàng quy định vàng là thượng tệ, đơn vị là “dật” 镒 (hợp
20 lượng); đồng là hạ tệ, đơn vị là “bán lượng” 半两,
hình trạng là “phương khổng viên tiền” 方孔圆钱 (tiền tròn lỗ
vuông). Hình chế của loại phương khổng viên tiền này được kéo dài dùng đến hơn
2000 năm. 1 dật ước khoảng 20 lượng vàng, đời Hán 1 lượng là 15.6 gam.
“Ngũ thù” 五铢 là loại hoá tệ có thời gian sử dụng dài nhất trong lịch sử tiền tệ Trung Quốc., thời Hán Vũ Đế 汉武帝bắt đầu đúc và phát hành, mãi cho đến thời Đường Cao Tổ 唐高祖, tổng cộng lưu thông 720 năm. Sau đó, Đường Cao Tổ Lí Uyên 李渊 bắt đầu đúc tiền Khai Nguyên thông bảo 开元通宝, loại tiền này có ảnh hưởng cực kì sâu rộng đối với đời sau.
Thù 铢, 1/24 của 1 lượng. Đơn vị phát “hồng bao” 红包 của
Doanh Chính 嬴政 là
“dật”. 1 dật bằng 20 lượng.
Thành
ngữ “Dĩ dật xưng thù” 以镒称铢, dùng dật 镒 (20
lượng) sánh với thù 铢 (1/24
lượng), biểu thị lực lượng ở vào ưu thế tuyệt đối. Ngược lại, thành ngữ “Dĩ thù
xưng dật” 以铢称镒, biểu thị lực lượng ở vào thế yếu tuyệt đối.
Tri 锱 thời cổ bằng 1/4 của lượng, 1 tri 锱 bằng 6 thù 铢. Tri và thù đều là đơn vị trọng lượng rất nhỏ, với một người mà tính khí hẹp hòi, chúng ta thường dùng thành ngữ “Tri thù tất giảo” 锱铢必较 (một chút cũng so đo tính toán).
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 23/10/2021
Nguồn
THÚ THUYẾT TRUNG QUỐC SỬ
趣说中国史
Tác giả: Thú Ca 趣哥
Bắc Kinh – Đài Hải xuất bản xã, 2020