PHONG THIỆN
Phong Thiện
封禅 là điển lễ đế vương nhận mệnh từ trời. Nghi thức này
khởi nguồn từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Đương thời, các nho sĩ nước Tề nước Lỗ cho rằng Thái sơn 泰山
là núi cao nhất trong thiên hạ, đế vương tối cao chốn nhân gian phải đến ngọn
núi cao nhất này để tế thần linh chí cao vô thượng, mà Thái sơn lại là phân giới
giữa Tề và Lỗ. Về sau, nghi thức tế tự Thái sơn được mở rộng thành tế vọng thống
nhất đế quốc, đồng thời định danh là “Phong Thiện”. Trong hai chữ “Phong Thiện”,
“Phong” ý nghĩa là tế Thiên, “Thiện” ý nghĩa là tế Địa. Lễ Phong Thiện, được thấy
sớm nhất ở thiên Phong Thiện 封禅 trong Quản Tử 管子, nhưng thiên
này đã thất truyền. Theo lời của Quản Trọng 管仲
luận về Phong Thiện được chép trong Sử kí
– Phong Thiện thư 史记 - 封禅书: thời cổ, đế
vương Phong Thái sơn 泰山, Thiện Lương Phụ 梁父 có 72 đời, Quản Trọng nhớ được 12 đời. Từ Vô Hoài thị
无怀氏 đến Chu Thành Vương 周成王,
đều cử hành điển lễ sau khi thụ mệnh. Đế vương thụ mệnh phải có 15 điềm lành
không triệu mà đến thể hiện ra, như vậy mới có thể cử hành điển lễ. Bộ Quản Tử xuất xứ từ học phái ở Tắc Hạ 稷下 nước Tề thời Chiến Quốc, vì thế có lẽ nó đại biểu cho
cách nhìn của các Âm Dương gia đối với Phong Thiện.
Người đầu
tiên chân chính cử hành Phong Thiện là Tần Thuỷ Hoàng. Năm Thuỷ Hoàng thứ 3, tuần
thú quận huyện đã cùng với các nho sĩ thảo luận điển lễ Phong Thiện. Các Bác sĩ
nghị luận sôi nổi, nhưng không đưa ra trình từ lễ nghi cụ thể. Tần Thuỷ Hoàng
bèn mượn dùng nghi điển tế Thượng Đế vốn có của nước Tần, trước tiên đến Thái
sơn cử hành Phong lễ, sau đó đến Lương Phụ cử hành Thiện lễ. Đầu thời Hán, kinh
tế sa sút, năm Hán Văn Đế thứ 13 (năm 167 trước công nguyên), tuy có thảo luận
qua Phong Thiện, nhưng vì không có điều kiện kinh tế nên không làm. Thời Vũ Đế
kinh tế phục hồi, vì thế sai Triệu Oản 赵绾,
Vương Tang 王臧 “thảo tuần thú, Phong Thiện, cải đổi lịch, phục sắc”.
Nhưng do Đậu Thái hậu cực lực phản đối nên thôi. Năm Nguyên Phong 元封 thứ 1 (năm 110 trước công nguyên), Vũ Đế mới cử hành
Phong Thiện. Nhưng lần Phong Thiện đó, không những nghi thức cụ thể chủ yếu do
phương sĩ đảm nhiệm, mà việc cử hành cũng thần bí, sử quan cũng không biết tường
tận. Phong ở Thái sơn 泰山, Thiện ở Túc Nhiên
sơn 肃然山 (đông bắc Thái sơn), đồng thời cải nguyên là Nguyên
Phong 元封. Từ đó về sau, cứ cách 5 năm tổ chức một lần. Trước
sau tổng cộng cử hành qua 5 lần. Năm Kiến Vũ 建武
thứ 30 thời Đông Hán (năm 54), đại thần Trương Thuần 张纯
tấu thỉnh Hán Quang Vũ Đế Phong Thiện, nhưng ông cho mình không có đức nên
không đồng ý. Hai năm sau, ông tin sấm văn “Xích Lưu chi cửu, hội mệnh Đại
Tông” 赤刘之九, 会命岱宗 (9 đời của triều
Hán, thụ mệnh ở Đại Tông) (1), sai Lương Tùng 梁松 tìm chế điển Phong Thiện của 9 đời, sau đó đi tuần về
phía đông, Phong ở Thái sơn, Thiện ở Lương Âm 梁阴,
đồng thời cải nguyên là Trung Nguyên 中元 nguyên niên (năm
56).
Sau
này, trong lịch sử Trung Quốc, Đường Cao Tông, Tống Chân Tông có cử hành qua
Phong Thiện.
Chú của người
dịch
1- Xích Lưu 赤刘: thời cổ, các
nhà sấm vĩ cho triều Hán là “dĩ hoả đức vi vương” 以火德为王”, hoả sắc đỏ, còn triều Hán họ Lưu 刘,
cho nên nhân đó dùng “Xích Lưu” để chỉ triều Hán.
Đại tông 岱宗: từ tôn xưng Thái sơn. Thái sơn còn được gọi là Đại
sơn 岱山, Đại nhạc 岱岳, Đông nhạc 东岳, đứng đầu danh sơn toàn quốc, được xưng tụng là
“thiên hạ đệ nhất sơn” 天下第一山.
“Thái” 泰 có nghĩa là cực lớn, là thông sướng, an ninh.
“Tông” 宗 có nghĩa là trưởng, là đứng đầu
Thái
sơn là “ngũ nhạc chi trưởng”, cũng là “quần nhạc chi trưởng”. Ngũ nhạc gồm:
Đông nhạc
Thái sơn 东岳泰山
Tây nhạc
Hoá sơn 西岳华山
Bắc nhạc
Hằng sơn 北岳恒山
Trung
nhạc Tung sơn 中岳嵩山
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 20/02/2017
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật