鷓鴣天
壯歲旌旗擁萬夫
錦襜突騎渡江初
燕兵夜娖銀胡
... (1)
漢箭朝飛金僕姑
追往事
嘆今吾
春風不染白髭鬚
卻將萬字平戎策
換得東家種樹書
(辛棄疾)
GIÁ CÔ THIÊN
Tráng tuế tinh kì ủng
vạn phu
Cẩm xiêm đột kị độ
giang sơ
Yên binh dạ xúc
ngân Hồ lộc
Hán tiễn triêu phi
kim bộc cô
Truy vãng sự
Thán kim ngô
Xuân phong bất nhiễm
bạch tì tu
Khước tương vạn tự
bình Nhung sách
Hoán đắc đông gia
chủng thụ thư
(Tân Khí Tật)
Chú
thích
- Tráng tuế tinh kì ủng vạn phu 壯歲旌旗擁萬夫: chỉ việc tác giả lãnh đạo quân
khởi nghĩa kháng Kim, lúc bấy giờ vừa mới 20 tuổi. Trong Tiến mĩ cần thập luận tử 進美芹十論子
ông viết rằng:
Thần thường cưu chúng nhị thiên, lệ Cảnh
Kinh, vi chưởng thư kí,dữ đồ khôi phục, cộng tịch binh nhị thập ngũ vạn, nạp
khoản ư triều.
臣嘗鳩眾二千, 隸耿京, 為掌書記, 與圖恢服, 共藉兵二十五萬, 納款於朝.
(Thần
từng quy tụ hai ngàn người, theo Cảnh Kinh, làm thư kí, cùng mưu đồ khôi phục,
cộng thêm binh mượn 25 vạn, sẽ quy thuận triều đình)
- Cẩm xiêm đột kị độ giang sơ 錦襜突騎渡江初: chỉ việc tác giả trước khi về
nam đã thống lĩnh quân đội chiến đấu cùng kẻ địch.
Cẩm xiêm đột kị 錦襜突騎: tức cẩm y kị binh tinh nhuệ.
Xiêm 襜: chiến bào. Áo che phía trước ngực gọi là “xiêm”.
- Hai câu “Yên binh ...” : thuật lại tình huống quân Tống chuẩn bị xạ
kích quân địch.
Xúc 娖: có nghĩa là chỉnh lí.
Ngân Hồ lộc 銀胡 ... : túi đựng tên có màu bạc
hoặc nạm bạc.
Kim bộc cô 金僕姑:tên gọi mũi tên.
- Bình Nhung sách 平戎策: sách lược bình định kẻ xâm nhập
lúc bấy giờ, như Mĩ cần thập luận 美芹十論, Cửu nghị 九議 ...
- Chủng thụ thư 種樹書: (sách dạy trồng cây – ND) biểu thị ý lui về quê nhà làm ruộng.
Dịch
nghĩa
Khi ta còn trẻ đã thống lĩnh hơn
một vạn sĩ binh
Đội kị binh tinh nhuệ vượt qua
Trường giang
Quân Kim buổi tối chuẩn bị túi
tên
Quân Hán vừa mới sáng sớm đã hướng
đến quân địch bắn tên kim bộc cô
Nhớ lại việc đã qua
Than cho ta hiện tại
Gió xuân không thể làm cho râu
trắng của ta đen trở lại
Đem bộ sách lược bình định quân
Kim dài gần vạn chữ
Đổi lấy sách dạy trồng cây cho
người bên nhà phía đông.
Bối
cảnh sáng tác
Năm
1161 (năm Thiệu Hưng 紹興 thứ 31 đời Tống Cao Tông), chúa Kim Hoàn Nhan Lượng 完顏亮 thống lĩnh đại quân nam hạ, hậu
phương tương đối trống, dân ở phương bắc bị xâm chiếm thừa cơ tiến hành hoạt động
khởi nghĩa. Cảnh Kinh 耿京, nông dân vùng Tế Nam Sơn Đông lãnh đạo một đội quân khởi
nghĩa lên đến hơn 20 vạn người, thanh thế to lớn. Tân Khí Tật 辛棄疾 lúc bấy giờ mới vừa 22 tuổi,
cũng tổ chức một đội quân khởi nghĩa hơn 2000 người, quy phụ Cảnh Kinh, làm thư
kí cho Cảnh Kinh. Tân Khí Tật kiến nghị quân khởi nghĩa liên hệ với quân Tống để
tiện phối hợp chiến đấu. Tháng Giêng năm sau, Cảnh Kinh phái hơn 10 người đến
Kiến Khang 建康
(nay là Nam Kinh, Giang Tô) yết kiến Tống Cao Tông. Cao Tông được tin, cho Cảnh
Kinh làm Thiên bình quân Tiết độ sứ 天平軍節度使, Tân Khí Tật làm Thừa vụ lang 承務郎. Nhóm Tân Khí Tật về đến Hải Châu
海州, nghe tin kẻ phản loạn Trương
An Quốc 張安國
đã giết chết Cảnh Kinh, đầu hàng quân Kim, nghĩa quan tan vỡ. Tân Khí tật lập tức
tại Hải Châu tổ chức hơn 50 nghĩa binh dũng cảm, tiến thẳng đến nơi đóng quân của
Trương An Quốc ở Tế Châu, (thuộc Cự Dã 鉅野 Sơn Đông 山東 ngày nay), yêu cầu gặp mặt
Trương An Quốc. Xuất kì bất ý, bắt trói Trương An Quốc cho lên lưng ngựa, tiếp
đó hướng đến bộ hạ Trương An Quốc tuyên dương đại nghĩa dân tộc, dẫn đội quân
hơn vạn người, ruổi ngựa về phía nam suốt đêm, vượt qua sông Hoài mới dám ngừng
nghỉ. Đến Lâm An 臨安
đưa Trương An Quốc lên triều đình Nam Tống để xử lí. Nhưng Tống Cao Tông không
có quyết tâm kháng Kim, lại sợ quân khởi nghĩa. Sau khi Tân Khí Tật về nam,
nghĩa quân bị giải tán, an trí sinh hoạt trong đám lưu dân các châu huyện phía
nam sông Hoài. Tân Khí Tật được giao chức Giang Âm thiêm phán 江陰僉判, một viên tiểu lại trợ lí địa phương, điều đó khiến mọi người
như bị đả kích, họ cảm thấy thất vọng. Về sau Tân Khí Tật làm quan lại văn võ hơn 20 năm tại
các nơi, nhân đó tiến hành hoạt động luyện binh, thường bị đàn hặc, ông bãi
quan về sống tại Thượng Nhiêu 上饒, Diên sơn 鉛山 ở Giang Tây cũng gần 20 năm. Khắp
nơi ông bị phái đầu hàng ngăn cản, tráng chí báo đáp quốc gia khó thành.
Bài
từ này Tân Khí Tật làm ở quê nhà lúc vãn niên, khi ông cùng khách bàn luận công
danh sự nghiệp, khiến ông hồi tưởng những gì đã trải qua từ lúc thanh niên đến
lúc vãn niên.
Chú của người dịch
1-
Chữ “lộc” này trong nguyên tác gồm 角
bên trái và 录 bên phải.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 27/7/2016
Nguồn
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật