PHẨM,
GIAI, HUÂN, TƯỚC
Thời
cổ đem chức quan phân thành một số đẳng cấp, gọi là “phẩm” 品. Đời Hán lấy “lộc thạch” 祿石 nhiều ít làm tiêu chí chức vị
cao thấp, ví dụ như Cửu khanh 九卿 là 2000 thạch, Thứ sử Thái thú 刺史太守 là 2000 thạch, Huyện lệnh 縣令 là 1000 đến 600 thạch. Lộc thạch
khác nhau, nguyệt bổng thu nhập cũng khác nhau. Thời Tào Nguỵ chức quan chia
làm cửu phẩm, Nhất phẩm 一品 là cao nhất, Cửu phẩm 九品 là thấp nhất. Thời Tuỳ Đường, cửu
phẩm lại chia thành “chính” 正 và “tùng” 從. Từ Chính tứ phẩm trở xuống, mỗi phẩm lại phân thành 2 giai
thượng và hạ, tổng cộng có 30 cấp. Thời Minh Thanh giản hoá trở lại, cửu phẩm
chỉ phân làm chính và tùng, tổng cộng có 18 cấp. Thời Tuỳ Đường chức quan trong
cửu phẩm gọi là “lưu nội” 流內, chức quan ngoài cửu phẩm gọi là “lưu ngoại” 流外. Lưu ngoại quan trải qua khảo hạch
được chuyển thành Lưu nội quan, đời Đường gọi là “nhập lưu” 入流. Đời Thanh các quan không thuộc
trong cửu phẩm gọi là “vị nhập lưu” 未入流.
2-
GIAI
Đời Tuỳ gọi quan có chức vụ
là “Chức sự quan” 職事官, quan không có chức vụ gọi
là “Tản quan” 散官. Đời Đường đem quan hiệu Tản
quan đời trước chỉnh lí và bổ sung, đồng thời quy định mới lại phẩm cấp, lấy đó
làm xưng hiệu đánh dấu cấp bực thân phận quan viên, gọi là “giai quan” 階官.
Ví dụ như Văn quan giai là: Tùng nhất phẩm gọi là “Khai phủ nghi đồng tam ti” 開府儀同三司,
Chính nhị phẩm gọi là “Đặc tiến” 特進, Tùng nhị phẩm gọi là
“Quang lộc đại phu” 光祿大夫 v.v… Văn quan giai từ Lục
phẩm trở xuống gọi là “Lang” 郎, ví dụ như Chính lục phẩm
trở lên gọi là “Triều nghị lang” 朝議郎, dưới Chính lục phẩm gọi
là “Thừa nghị lang” 承議郎 v.v… Đời Đường thu nạp
quan hiệu của Tướng quân và Hiệu uý đời trước đặt làm Võ quan giai. Về sau, các
đời Tống Nguyên Minh Thanh đều có quan giai, có điều danh xưng và phẩm cấp có
khác nhau.
Thời Đường Tống, một người có phẩm cấp
quan giai tại một thời kì nào đó không nhất định phải tương đồng với phẩm cấp
Chức sự quan mà người đó đang đảm nhiệm. Nếu quan giai cao hơn Chức sự quan thì
trước Chức sự quan thêm chữ “Hành” 行; quan giai thấp hơn Chức sự
quan thì trước Chức sự quan thêm chữ “Thủ” 守;
quan giai thấp hơn Chức sự quan 2 phẩm thì thêm chữ “Thí” 試.
3- HUÂN
Đời Hán lấy một số quan hiệu
Tản quan đời trước bổ sung thêm làm huân hiệu ban thưởng quân công, gọi là
“huân” 勳, thông xưng là “huân quan” 勳官.
Có: “Thượng trụ quốc” 上柱國, “Trụ quốc” 柱國,
“Thượng hộ quân” 上護軍, “Hộ quân” 護軍,
“Khinh xa đô uý” 輕車都尉, “Kiêu kị uý” 驍騎尉
v.v… tổng cộng có 12 cấp. Đời sau theo chế độ đời Đường, chỉ có điều phẩm cấp
hơi khác nhau.
Đời Minh có “Văn huân” “Võ huân”. Huân hiệu võ quan về cơ bản tương đồng với
các đời trước. Huân hiệu văn quan ngoài “Trụ quốc” ra, còn có “Chính trị khanh”
正治卿, “Tư trị doãn” 資治尹.
Đời Thanh, huân và tước hợp lại làm một.
4- TƯỚC
Thuyết
cũ có nói tước phong của đời Chu có 5: Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男.Tước phong đời Hán thực tế chỉ
có 2 là Hầu 侯
và Vương 王.
Hoàng tử phong Vương, tương đương với chư hầu thời Tiên Tần, cho nên còn gọi là
“Chư hầu Vương” 諸侯王.
Đầu đời Hán, khác họ cũng được phong Vương, về sau “phi Lưu thị bất Vương” 非劉氏不王 (không phải họ Lưu thì không được
phong Vương). Người khác họ được thụ phong gọi là “Liệt Hầu” 列侯. Từ Hán Vũ Đế về sau, Chư hầu Vương
được quyền phong con thứ của mình là “Hầu” trong địa phận Vương quốc mình, tính
chất cũng là “Liệt hầu” (xưng là “Vương tử Hầu”). Thực ấp của Liệt Hầu đời Hán
thường là huyện, cũng có người là hương, là đình. Xem số thực hộ nhiều ít mà định,
cho nên về sau có các tên gọi như “Hương
Hầu” 鄉侯,
“Đình Hầu”亭侯.
Sau thời Tam quốc, chế độ phong tước của các đời không giống nhau, nhưng cùng họ
được phong Vương là nhất trí, khác họ thường được phong là Công, Hầu, Bá, Tử,
Nam (1). Đời Tấn, Tống trở về sau, tước hiệu có thêm 2 chữ “Khai quốc”
開國 để biểu thị sự tôn quý, ví dụ
như Lạc An quận Khai quốc Công 樂安郡開國公, Khúc Phụ huyện Khai quốc Tử 曲阜縣開國子, gọi đó là “Khai quốc tước”. Nếu
tước không có thêm “Khai quốc” thì gọi là “Tản tước” 散爵. Đất phong tuy nói là quận, huyện
nhưng sau này đều là hư danh. Đời Tống nói “thực ấp” 食邑 mấy ngàn hộ, “thực thực phong” 食實封 mấy ngàn hộ, hoàn toàn không biểu
thị số thu nhập thuế khoá. Việc phong tước cho hoàng thất đời Minh và đời Thanh
cũng khác với phong tước cho người khác họ.
CHÚ CỦA NGUYÊN TÁC
(1)- Khác họ cũng được phong
Vương, ví dụ như Dương Kiên 楊堅 (Tuỳ Văn Đế 隋文帝) lúc đầu làm quan triều Bắc Chu được phong là Tuỳ Công 隋公, sau được phong là Tuỳ Vương 隋王. Lí Uyên 李淵 (Đường Cao Tổ 唐高祖) lúc đầu làm quan triều Tuỳ, được
phong là Đường Công 唐公, sau được phong là Đường Vương 唐王. Quách Tử Nghi 郭子儀 có quân công, được phong là Phần
Dương Vương 汾陽王.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 10/6/2013
Dịch từ nguyên tác Trung văn
Trong quyển
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 3)
Chủ biên: Vương Lực 王力
Trung Hoa thư cục 1998.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật